Chốt thỏa thuận 750 tỷ USD, ông Trump dùng khí đốt làm đòn bẩy ngoại giao đáng gờm

Nhật Hạ 01/08/2025 - 14:58

Các đối tác thương mại của Mỹ đang cam kết mua lượng khí đốt vượt quá nhu cầu của họ – và vượt quá khả năng sản xuất của Mỹ, ít nhất là trong ngắn hạn.

Trong nhiều năm qua, các cuộc đàm phán thương mại chủ yếu tập trung vào việc thiết lập các quy tắc chung cho hoạt động thương mại giữa các quốc gia.

Tuy nhiên, dưới thời Tổng thống Donald Trump, cách thức đàm phán đã trở nên trực tiếp hơn, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng. Hiện nay, một số quốc gia đã đồng ý mua nhiên liệu hóa thạch của Mỹ với khối lượng cụ thể và thời hạn kéo dài nhiều năm – bất kể nền kinh tế của họ có thực sự cần đến lượng nhiên liệu đó hay không, hoặc liệu Mỹ có đủ năng lực sản xuất để đáp ứng hay không.

khi-my(1).jpg
Một nhà máy LNG của Venture Global tại Cameron, bang Louisiana. Một phần đáng kể lượng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) xuất khẩu của Mỹ đến từ vùng duyên hải Vịnh Mexico. (Ảnh: The New York Times)

Cách tiếp cận này đang đưa yếu tố can thiệp của chính phủ vào những giao dịch vốn thường được quyết định theo cơ chế thị trường tự do. Và hiện vẫn chưa rõ các nhà lãnh đạo chính trị sẽ thuyết phục các doanh nghiệp tư nhân tham gia thực hiện những cam kết này như thế nào – hoặc liệu họ có thể làm được điều đó hay không.

“Cách làm này là điều mới mẻ, và lý do là bởi trong các hiệp định thương mại, người ta thường mong muốn những cam kết rõ ràng và có thể thực thi”, ông David Goldwyn – cựu nhà ngoại giao Mỹ và cựu quan chức Bộ Năng lượng Mỹ – nhận định. “Những cam kết về năng lượng này thì lại không rõ ràng, cũng không có tính ràng buộc cao. Chúng mang tính định hướng chính trị, khuyến khích nhiều hơn là cam kết bắt buộc”.

Cam kết năng lượng của Liên minh châu Âu

Liên minh châu Âu (EU) đã cam kết mua 750 tỷ USD sản phẩm năng lượng của Mỹ – bao gồm dầu thô, nhiên liệu hạt nhân cho lò phản ứng, khí tự nhiên và các chế phẩm dầu mỏ khác – trong vòng ba năm. Tính trung bình mỗi năm, khối lượng đó gấp hơn ba lần so với mức EU nhập khẩu từ Mỹ năm ngoái.

khi-my-2(1).jpg
Thỏa thuận của ông Trump với châu Âu. Thỏa thuận này sẽ đòi hỏi Mỹ phải tăng mạnh xuất khẩu năng lượng trong tương lai. (Ảnh: The New York Times)

EU đã gia tăng nhập khẩu khí đốt Mỹ kể từ khi Nga – nhà cung cấp lớn trước đây – phát động chiến dịch quân sự tại Ukraine năm 2022. Nhu cầu nhập thêm là có thật. Tuy nhiên, để đạt được con số 250 tỷ USD mỗi năm, EU gần như sẽ phải coi Mỹ là nhà cung cấp duy nhất – điều này đi ngược lại nguyên tắc đa dạng hóa nguồn cung của hệ thống năng lượng hiện đại.

“Họ sẽ phải ngừng mua từ bất kỳ ai khác, và điều đó sẽ tạo ra sự phụ thuộc rất lớn vào một quốc gia – dù đó là Mỹ hay ai khác”, ông Jason Feer – chuyên gia phân tích tại công ty môi giới năng lượng và tàu biển Poten & Partners – cảnh báo. “Cốt lõi của hệ thống năng lượng hiện đại là phải luôn có sự đa dạng”.

Ở chiều ngược lại, theo phân tích của ClearView Energy Partners dựa trên số liệu liên bang, mức cam kết 250 tỷ USD này tương đương khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu năng lượng của Mỹ ra toàn thế giới trong năm 2025. Mặc dù hiện tại có một số nhà máy đang được xây dựng để tăng gấp đôi năng lực xuất khẩu khí đốt Mỹ vào năm 2030, và cổ phiếu của các công ty như Cheniere hay Venture Global đã tăng giá sau khi thỏa thuận được công bố, thì trong ngắn hạn, việc tăng mạnh xuất khẩu sang châu Âu có thể làm giảm lượng khí cung ứng cho các khách hàng ở các khu vực khác trên thế giới.

khi-my-3(1).jpg
Tàu chở khí tự nhiên hóa lỏng (LNG). (Ảnh: The New York Times)

Ngay cả khi xét về mặt kinh tế là khả thi, EU cũng không có thẩm quyền buộc các doanh nghiệp tư nhân trong khối phải mua theo khối lượng đã cam kết. Tương tự, chính phủ Mỹ cũng không thể yêu cầu các công ty dầu khí của mình bán hàng theo chỉ định. Trong bản thông cáo liên quan đến thỏa thuận này, EU cho biết sẽ khởi động một “quy trình chuyên biệt” nhằm tổng hợp nhu cầu từ các nước thành viên và đối chiếu với nguồn cung phù hợp từ Mỹ. “Mỹ sẽ cần hỗ trợ các giao dịch này bằng cách đảm bảo quyền tiếp cận không hạn chế và có đủ năng lực sản xuất, xuất khẩu”, bản công bố nêu rõ.

Vấn đề thực thi cùng hậu quả mơ hồ

Bài học từ nhiệm kỳ đầu tiên của ông Trump cho thấy việc buộc chính phủ thực hiện các cam kết mua hàng trong thỏa thuận thương mại là không đơn giản. Khi đó, ông đã thuyết phục Trung Quốc – nền kinh tế chịu sự điều tiết chặt chẽ từ nhà nước – cam kết mua một lượng nhất định các sản phẩm năng lượng và nông sản của Mỹ. Tuy nhiên, hầu hết các mục tiêu này đã không đạt được, và không có hậu quả cụ thể nào được áp dụng.

Các hiệp định thương mại tiêu chuẩn thường có quy trình rõ ràng để hai bên thực thi các cam kết – bao gồm cả các biện pháp xử lý khi vi phạm. Những cơ chế đó hoàn toàn không tồn tại trong các thỏa thuận mà ông Trump đã ký. Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu EU không đáp ứng được cam kết mua năng lượng sau ba năm, một quan chức Nhà Trắng cho biết phản ứng sẽ là “tăng thuế quan”.

Hiện chưa rõ thỏa thuận thương mại này với Mỹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến khả năng thực hiện các mục tiêu khí hậu của EU. Một đạo luật năm 2021 yêu cầu các quốc gia thành viên EU phải cắt giảm phát thải khí nhà kính ròng 55% so với mức năm 1990 vào năm 2030. Trong ngắn hạn, việc tăng sử dụng khí đốt có thể hỗ trợ mục tiêu này bằng cách thay thế than. Nhưng nếu nhập khẩu quá nhiều khí, điều đó có thể làm giảm thị phần của các nguồn năng lượng sạch như gió và mặt trời. Trước khi thỏa thuận được ký, nhu cầu sử dụng khí đốt tại châu Âu đã được dự báo sẽ giảm trong vài năm tới.

“Hoàn toàn có khả năng điều đó sẽ làm chậm triển khai các nguồn năng lượng tái tạo”, ông Joseph Majkut – Giám đốc Chương trình An ninh Năng lượng và Biến đổi Khí hậu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) – nhận định. “Nhưng thực tế là EU có các cam kết khí hậu rất cứng rắn và đã được luật hóa”.

Toán học chính trị

Các bên có thể đạt được con số 750 tỷ USD thông qua các cách “tính toán chính trị” – chẳng hạn như việc các nước EU mua các tàu chở dầu hoặc khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) nhưng không sử dụng hết, sau đó bán lại cho bên thứ ba. Họ cũng có thể ký các cam kết mua hàng dài hạn với giá trị lớn trên giấy tờ, nhưng thực tế được thực hiện trong vòng 20 năm.

“Để làm vậy phải sử dụng cái mà chúng tôi gọi một cách tôn trọng là toán học chính trị”, ông Kevin Book – Giám đốc điều hành của ClearView Energy Partners – giải thích. “Một trong những công cụ hiệu quả nhất của ngoại giao chính là sự mơ hồ.”

Không phải tất cả các cam kết mua năng lượng đều cụ thể như của EU. Khuôn khổ hợp tác với Nhật Bản, chẳng hạn, lại khá mơ hồ. Điều này càng làm tăng khoảng trống cho các cách diễn giải khác nhau.

Trong tuyên bố về thỏa thuận với Nhật Bản, Nhà Trắng ca ngợi “một bước mở rộng lớn” trong xuất khẩu năng lượng của Mỹ, đồng thời cho biết khoản đầu tư trị giá 550 tỷ USD mà Nhật cam kết sẽ một phần dành cho “cơ sở hạ tầng và sản xuất năng lượng”. Điều này có thể liên quan đến dự án hạ tầng trị giá 44 tỷ USD nhằm đưa khí đốt từ vùng North Slope (Alaska) đến cảng xuất khẩu – từ đó chuyển sang châu Á.

khi-my-4(1).jpg
Dự án trị giá 44 tỷ USD nhằm đưa khí đốt từ vùng North Slope của Alaska đến một cảng xuất khẩu đã được bàn thảo suốt nhiều năm qua. (Ảnh: The New York Times)

Tuy nhiên, hiện nay, các nguồn cung rẻ hơn đang nằm ở vùng duyên hải Vịnh Mexico – nơi có kết nối tốt với các mỏ khí tự nhiên còn dồi dào trữ lượng. Hơn nữa, giá trị thực tiễn của các cam kết mua nhiên liệu kéo dài hàng thập kỷ cũng đang bị nghi ngờ, trong bối cảnh Nhật Bản cũng đã cam kết giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch.

Bài học từ Hàn Quốc và tác động nội địa

Điều tương tự cũng đúng với Hàn Quốc – quốc gia đã cam kết mua 100 tỷ USD năng lượng mà không nêu rõ thời hạn. Nước này bắt đầu nhập khí đốt từ Mỹ vào năm 2017 khi đang tìm cách loại bỏ dần điện hạt nhân, và có kế hoạch tăng nhập khẩu khi giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung Trung Đông. Nhưng việc ký các thỏa thuận dài hạn đã không suôn sẻ: một vụ nổ tại cơ sở khí hóa lỏng ở Texas năm 2022 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng, khiến giá cả tăng vọt.

Đó là lý do bà Michelle Kim – chuyên gia năng lượng tại Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính (IEEFA) – cho rằng việc mua khí theo nhu cầu sẽ giúp Hàn Quốc linh hoạt hơn khi nhu cầu đang giảm dần.

“Việc ký thêm hợp đồng dài hạn nữa không phải là quyết định đúng đắn và khôn ngoan”, bà Kim nói.

Tổng giá trị nhập khẩu năng lượng từ Mỹ của Hàn Quốc năm ngoái là 19,4 tỷ USD.

Nếu Mỹ tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu năng lượng, điều này cũng có thể gây ra tác động ngược lại với thị trường nội địa. Miễn là hạ tầng vận chuyển đủ khả năng, nhiên liệu sẽ luôn chảy đến nơi trả giá cao nhất.

Với việc gia tăng xuất khẩu khí ra nước ngoài và sử dụng nhiều khí hơn cho các trung tâm dữ liệu phục vụ trí tuệ nhân tạo (AI), giá khí trong nước có thể sẽ tăng – theo ông Aneesh Prabhu, Giám đốc điều hành tại S&P Global Ratings.

Tác động này có thể càng trở nên nghiêm trọng trong những năm tới, vì ông Trump và đảng Cộng hòa tại Quốc hội đã cắt giảm các khoản hỗ trợ thuế cho năng lượng gió và mặt trời được thông qua dưới thời Tổng thống Biden.

“Việc mất các ưu đãi thuế – hoặc ít nhất là bị suy giảm đáng kể – có thể làm chậm tốc độ phát triển năng lượng tái tạo, đồng nghĩa với việc nhu cầu dùng khí sẽ tăng”, ông Prabhu nói thêm.

Theo The New York Times

Theo Thị trường tài chính
https://thitruongtaichinh.kinhtedothi.vn/nhip-song-do-day/chot-thoa-thuan-750-ty-usd-ong-trump-dung-khi-dot-lam-don-bay-ngoai-giao-dang-gom-148043.html
Đừng bỏ lỡ
    Đặc sắc
    Nổi bật Người quan sát
    Đọc tiếp
    Chốt thỏa thuận 750 tỷ USD, ông Trump dùng khí đốt làm đòn bẩy ngoại giao đáng gờm
    POWERED BY ONECMS & INTECH