Hé lộ đề xuất đột phá của PGS.TS Ngô Trí Long: Một Quỹ đủ sức cứu cả nền kinh tế xanh?
Theo PGS.TS. Ngô Trí Long, Quỹ chuyển dịch năng lượng sẽ tiếp sức doanh nghiệp đi đường dài. Đây không chỉ là dòng vốn, mà là tín hiệu chính sách, là cam kết nhà nước đồng hành cùng khu vực tư nhân trong lộ trình xanh hóa nền kinh tế.
Nêu quan điểm tại "Diễn đàn nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu", ngày 24/6, PGS.TS. Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả - Bộ Tài chính cho rằng, trong hệ sinh thái năng lượng quốc gia, doanh nghiệp đóng vai trò then chốt ở mọi mắt xích: Từ khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối đến tiêu thụ. Không chỉ các tập đoàn nhà nước như EVN, PVN, TKV, mà hàng loạt doanh nghiệp tư nhân cũng đang chiếm tỷ trọng lớn trong mảng phát điện và truyền tải năng lượng.
Đáng chú ý, theo số liệu từ Bộ Công Thương năm 2024, khu vực tư nhân đang chiếm tới gần 80% tổng công suất điện mặt trời đã được vận hành trên cả nước. Các doanh nghiệp như TTC, Trung Nam, BCG, AMI AC Renewables… đã khẳng định vai trò không thể thay thế trong mảng năng lượng tái tạo.
“Doanh nghiệp là trung tâm của chuỗi cung ứng năng lượng, cả truyền thống lẫn tái tạo. Nhưng nếu không có dòng vốn đủ mạnh và ổn định, họ sẽ như người leo núi tay không giữa hành trình chuyển đổi đầy hiểm trở”, PGS.TS Ngô Trí Long nhấn mạnh.
![]() |
PGS.TS Ngô Trí Long. Ảnh minh hoạ |
>>>Việt Nam có gì đặc biệt trong cuộc đua phát triển tài chính bền vững toàn cầu?
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2024, nhu cầu vốn cho chuyển dịch năng lượng giai đoạn 2021–2030 của Việt Nam lên tới 134,7 tỷ USD, trong đó 70% dự kiến đến từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, thực tế lại rất khác.
Khảo sát của VCCI chỉ ra rằng chỉ khoảng 15–20% doanh nghiệp năng lượng hiện nay có thể tiếp cận được các khoản tín dụng ưu đãi. Nguyên nhân nằm ở hàng loạt rào cản: thiếu cơ chế bảo lãnh, rủi ro chính sách giá điện, thiếu khung pháp lý tín dụng xanh, và thiếu các công cụ phòng ngừa rủi ro tài chính trong thị trường điện cạnh tranh.
Trong khi đó, các khoản vay dài hạn phục vụ đầu tư vào điện gió, điện mặt trời, lưu trữ năng lượng… lại có kỳ thu hồi vốn dài, chi phí tài chính cao, và gần như không có bảo hiểm rủi ro.
“Doanh nghiệp không thể tự bơi trong một thị trường đầy rủi ro, trong khi nhà nước lại mang trong mình cam kết quốc tế nặng nề như mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”, ông Long thẳng thắn.
Ông Long phân tích: Việt Nam cần một cơ chế tài chính đủ lớn và đủ bền vững để tiếp sức doanh nghiệp đi đường dài. Đây không chỉ là dòng vốn, mà là tín hiệu chính sách, là cam kết nhà nước đồng hành cùng khu vực tư nhân trong lộ trình xanh hóa nền kinh tế.
Từ thực tiễn đó, PGS.TS Ngô Trí Long đưa ra một đề xuất mang tính đột phá: Thiết lập Quỹ chuyển dịch năng lượng quốc gia. Quỹ này sẽ có chức năng cung cấp tín dụng ưu đãi, bảo lãnh rủi ro, hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và công nghệ lưu trữ điện.
“Quỹ chuyển dịch năng lượng không phải là một ý tưởng xa xôi. Đó là điều Việt Nam cần ngay lúc này để không tụt lại phía sau trong cuộc đua toàn cầu về năng lượng bền vững và phát triển xanh”, ông Long khẳng định.
Vị chuyên gia nhấn mạnh: Nhiều quốc gia đã đi trước và cho thấy hiệu quả vượt trội từ các cơ chế tương tự:
Đức vận hành Quỹ Khí hậu & Chuyển đổi (KTF) với quy mô hơn 200 tỷ euro để tài trợ tín dụng dài hạn cho doanh nghiệp năng lượng; Hàn Quốc xây dựng các ngân hàng phát triển xanh, cung cấp nguồn vốn ưu đãi, dài hạn cho đầu tư công nghệ sạch; Trung Quốc ban hành “Hướng dẫn Tín dụng Xanh” và gắn chỉ số ESG vào hệ thống ngân hàng; Singapore triển khai chương trình trợ cấp thiết bị tiết kiệm năng lượng cho SME, song hành với đào tạo và đo lường kết quả ESG.
"Những mô hình này cho thấy tín dụng xanh, trợ cấp đầu tư công nghệ, và thị trường carbon cần phải đi song hành, tạo nên một chuỗi hỗ trợ tài chính – kỹ thuật – thị trường có khả năng thúc đẩy chuyển dịch năng lượng theo chiều sâu", PGS.TS Ngô Trí Long, nhận định.
Để tạo điều kiện thực thi hiệu quả, PGS.TS Ngô Trí Long kiến nghị một loạt chính sách đi kèm:
Xây dựng cơ chế tín dụng xanh rõ ràng, với hướng dẫn cụ thể từ Ngân hàng Nhà nước cho các ngân hàng thương mại; Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị tiết kiệm năng lượng; Miễn giảm tiền thuê đất, khấu hao nhanh cho tài sản đầu tư vào công nghệ năng lượng tái tạo; Minh bạch hóa gói hỗ trợ ngân sách, tăng cường hợp tác công – tư (PPP) trong đầu tư năng lượng; Phát triển thị trường carbon nội địa, chứng chỉ xanh và bộ chỉ số ESG gắn với tín dụng ngân hàng.
Quan trọng hơn cả, theo ông Long, Việt Nam cần khẩn trương xây dựng một Chiến lược tài chính xanh quốc gia, đồng bộ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, bảo đảm khả thi và có cơ chế giám sát minh bạch.