Kênh đào gần 90km lớn nhất lịch sử phong kiến Việt Nam, huy động hơn 90.000 dân binh làm việc suốt 5 năm
Đây là một công trình vĩ đại của quân và dân vùng biên giới Việt - Miên hồi đầu triều Nguyễn.
Vắt ngang qua địa phận tỉnh An Giang và Kiên Giang, kênh Vĩnh Tế như một dải lụa xanh mềm mại, trải dài một vùng thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Là một trong những công trình thủy lợi lớn nhất thời phong kiến, kênh không chỉ là tuyến giao thông huyết mạch mà còn là một kỳ quan, ghi dấu ấn đậm nét về tài năng và sự cần cù của người Việt xưa.
Kênh đào Vĩnh Tế chạy song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc TP. Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang ngày nay.
Theo sử sách triều Nguyễn, vào năm 1816, khi thành Châu Đốc đắp xong, vua Gia Long xem địa đồ miền đất này liền truyền: “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy”. Nhưng nhà vua chưa ra lệnh cho đào ngay vì ngại đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, lòng dân sẽ không yên.
Năm 1819, vua Gia Long ra lệnh đào kênh và kéo dài đến năm 1824 thì hoàn thành. Ước tính trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 90.000 dân binh; tổng số ngày công là 3.463.500 và khối lượng đất đào là 2.845.035m3.
Trong sách "Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang", quan trấn thủ trấn Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) là người trực tiếp chỉ huy việc đào kênh Vĩnh Tế.
Sau này, khi kênh hoàn thành, vua Minh Mạng rất mãn nguyện, liền ban thưởng, cho dựng bia ở núi Sam (Châu Đốc) ghi nhớ thành quả đào kênh. Để ghi nhận công lao của quan Thoại Ngọc Hầu, tên phu nhân của ông là bà Châu Thị Vĩnh Tế được vua đặt làm tên kênh.
Sử sách ghi lại, để làm cho con kênh được thẳng, người xưa đợi lúc ban đêm, rẽ sậy rạch hoang, đốt đuốc trên đầu những cây sào rồi nhắm theo đường thẳng mà cắm. Muốn điều khiển những cây "sào lửa" ấy cho thật ngay hàng, nhóm thợ cầm một cây rọi to, đứng trên cao phất qua phất lại ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí...
Chuyển đổi theo hệ đo lường ngày nay, kênh Vĩnh Tế có chiều dài là 87km, độ rộng trung bình 30m, độ sâu trung bình khoảng 2,55m. Tuy nhiên, trừ những đoạn sông rạch sẵn có thì phần phải đào mới chỉ là 37km.
Nói về lợi ích của con kênh này, sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn viết: “Từ ấy, đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng”.
Năm 1836 (Minh Mạng thứ 17), cho chạm hình tượng kênh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh, là một đỉnh đồng lớn nhất trong Cửu đỉnh, thờ vua Gia Long đặt trước sân Thế miếu (Đại nội Huế).
Suốt hai thế kỷ qua, kênh Vĩnh Tế dẫn nước từ sông Châu Đốc, chạy dọc miền biên viễn Tây Nam, thông qua các kênh đào đan xen tống phèn ra biển, cung cấp nước ngọt, phù sa cho ruộng đồng. Ngay đầu kênh Vĩnh Tế, nơi hợp lưu với sông Châu Đốc là trung tâm TP. Châu Đốc (An Giang), đô thị vùng biên sầm uất và đông khách du lịch bậc nhất miền Tây.
Từ Châu Đốc xuôi dòng Vĩnh Tế xuống hạ lưu sông Giang Thành (Kiên Giang), một bên là biên giới Việt Nam - Campuchia, một bên là Quốc lộ N1 lúc nào cũng tấp nập xe cộ qua lại, dưới kênh ghe thương hồ chở lúa, nông sản cũng qua lại dập dìu quanh năm.
Bởi thế mà ca dao có câu:
Kinh Vĩnh Tế, biển Hà Tiên,
Ghe thuyền xuôi ngược bán buôn dập dìu.
Từ “kênh mẹ” Vĩnh Tế, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã quyết định đào kênh T5 (kênh Võ Văn Kiệt) đưa nước ngọt xuyên qua vùng Tứ giác Long Xuyên ra tới Biển Tây, góp phần quan trọng đưa sản lượng lúa của An Giang đứng top đầu của cả nước.
>> Kênh đào 1,7 tỷ USD của Campuchia ảnh hưởng đến ĐBSCL: Một số tỉnh thực hiện phương án ứng phó