Lý do nào khiến nợ vay của các doanh nghiệp may mặc gia tăng?
Các doanh nghiệp may mặc ghi nhận nợ vay gia tăng trong nửa đầu năm 2025, với nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Diễn biến này gắn liền với nhu cầu bổ sung vốn lưu động để nhập khẩu nguyên liệu và bảo đảm tiến độ đơn hàng xuất khẩu.
Ngành dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất may mặc, ghi nhận sự gia tăng nợ phải trả trong nửa đầu năm 2025. Trong cơ cấu, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, khiến tỷ lệ nợ trên tổng tài sản và trên vốn chủ sở hữu duy trì ở mức cao. Diễn biến này gắn liền với nhu cầu vốn lưu động để nhập khẩu nguyên phụ liệu và bảo đảm tiến độ các đơn hàng xuất khẩu.
![]() |
Tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của một số doanh nghiệp may mặc. Nguồn: Tác giả tổng hợp và tính toán từ BCTC bán niên 2025 của các doanh nghiệp. |
Song song với đó, nợ vay tài chính của một số doanh nghiệp may mặc gia tăng để đáp ứng thanh khoản. Tỷ trọng trong cơ cấu nguồn vốn tiếp tục cao và tập trung chủ yếu ở ngắn hạn, trong khi các khoản vay dài hạn duy trì ổn định trong giai đoạn này.
![]() |
Tổng vay và nợ thuê tài chính của một số doanh nghiệp may mặc. Nguồn: Tác giả tổng hợp và tính toán từ BCTC bán niên 2025 của các doanh nghiệp. |
Đơn hàng kín đến quý IV, TNG tăng vay nợ bổ sung vốn lưu động
Đến nửa đầu năm 2025, CTCP Đầu tư và Thương mại TNG (HNX: TNG) có biên lợi nhuận gộp duy trì quanh mức 15%, trong khi biên lợi nhuận ròng khoảng 4%, nên khả năng tích lũy vốn tự có còn hạn chế. Do đó, nợ vay trở thành nguồn vốn quan trọng để bổ sung thanh khoản và đáp ứng nhu cầu vốn lưu động.
Báo cáo tài chính bán niên 2025 soát xét của TNG cho thấy đến ngày 30/6, tổng nợ phải trả đạt gần 4.967 tỷ đồng, tăng 26,6% so với đầu năm. Trong đó, nợ ngắn hạn chiếm 79% với 3.922 tỷ đồng, còn nợ dài hạn giảm 11% xuống 1.044 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E) đạt 2,7 lần so với 2,1 lần cuối năm 2024. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản tăng từ 67,5% cuối năm trước lên 73%.
Chi phí lãi vay trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 103 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ 2024. Lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT) đạt 306 tỷ đồng, đưa hệ số khả năng trả lãi (ICR) lên 3 lần, so với 2 lần cùng kỳ. Nếu tính theo EBITDA, chỉ số này đạt 4,2 lần, thấp hơn mức 4,8 lần năm trước nhưng vẫn đảm bảo chi phí lãi vay được bù đắp từ lợi nhuận tạo ra.
Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động, TNG đã ký các hợp đồng tín dụng với nhiều ngân hàng, gồm 1.200 tỷ đồng tại BIDV Thái Nguyên, 650 tỷ đồng tại VietinBank, 500 tỷ đồng tại MB và gần 450 tỷ đồng tại Vietcombank. Nhờ đó, dư nợ vay tài chính ngắn hạn cuối quý II tăng lên 2.743 tỷ đồng so với 1.401 tỷ đồng đầu năm. Vay ngân hàng chiếm 83% tổng dư nợ ngắn hạn, với lãi suất phổ biến 2,5–6,5%/năm.
Trong khi đó, dư nợ vay dài hạn giảm từ hơn 1.093 tỷ đồng xuống còn 938 tỷ đồng, chiếm khoảng 25,5% tổng dư nợ và giảm gần 14% so với cuối năm 2024. Cơ cấu này phản ánh sự dịch chuyển sang nợ ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phục vụ sản xuất và đơn hàng.
Nguồn vốn vay được phân bổ chủ yếu cho vốn lưu động. Đến cuối tháng 6, hàng tồn kho tăng thêm 487 tỷ đồng lên 1.561 tỷ đồng, còn các khoản phải thu ngắn hạn tăng 525 tỷ đồng lên 1.266 tỷ đồng. Công ty đồng thời mở rộng sản xuất để thực hiện các đơn hàng đã kín đến quý IV, trong đó thị trường châu Âu chiếm 50%, Mỹ 26% và Nga 10%.
Dòng tiền kinh doanh trong nửa đầu năm âm 566 tỷ đồng do nhu cầu vốn lưu động tăng cao, nhưng được bù đắp bởi dòng tiền tài chính dương 811 tỷ đồng từ hoạt động vay vốn.
May Sông Hồng duy trì nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn
Tính đến ngày 30/6, tổng nợ phải trả của CTCP May Sông Hồng (HoSE: MSH) đạt 1.853 tỷ đồng, tăng 4,7% so với đầu năm. Trong cơ cấu, toàn bộ là nợ ngắn hạn. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E) ở mức 1,1 lần, giảm so với 1,2 lần cuối năm 2024, trong khi tỷ lệ nợ trên tổng tài sản giảm từ 54,6% xuống 52,5%.
Tổng vay và nợ thuê tài chính cùng thời điểm đạt 1.438 tỷ đồng, gần như đi ngang so với cuối năm trước. Trong đó, dư nợ ngắn hạn chiếm 54% tổng dư nợ, còn dư nợ dài hạn và chiếm 46%. So với cuối năm 2024, dư nợ ngắn hạn gần như đi ngang, trong khi dư nợ dài hạn giảm nhẹ. Cơ cấu vay tập trung chủ yếu tại Vietcombank, BIDV và BIDV Nam Định.
Cùng kỳ, chi phí tài chính ghi nhận 46 tỷ đồng, tăng 55%; trong đó lãi vay 33 tỷ đồng, tăng 16%, còn lỗ chênh lệch tỷ giá tăng từ 1 tỷ đồng lên 13 tỷ đồng, khiến tỷ trọng lãi vay trong chi phí tài chính giảm từ 96% xuống 71%.
Nửa đầu năm 2025, doanh thu thuần của May Sông Hồng đạt 2.503 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ; lợi nhuận gộp 500 tỷ đồng, tăng 80%, nâng biên gộp từ 13% lên 20%. Lợi nhuận sau thuế đạt 267 tỷ đồng, tăng 92%, biên ròng lên 11%, trong khi EBIT gấp đôi 330 tỷ đồng, giúp hệ số ICR tăng từ 6 lần lên 10 lần.
Về dòng tiền, vốn lưu động thuần cuối tháng 6/2025 đạt 1.589 tỷ đồng, tăng 14% so với cuối năm 2024. Hệ số vốn lưu động cải thiện từ 1,75 lần lên 1,83 lần, còn hệ số thanh toán nhanh giữ ổn định quanh 1,4 lần. Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh âm 4 tỷ đồng, cải thiện rõ rệt so với mức âm 911 tỷ đồng cùng kỳ. Mức âm này chỉ bằng 1% lợi nhuận trước thuế, thay vì gấp hơn 5 lần như năm trước.
Nợ vay tài chính của Vinatex tăng 6,7%, ngắn hạn áp đảo
Đến ngày 30/6, tổng nợ phải trả của Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex – UPCoM: VGT) đạt 12.163 tỷ đồng, gần như đi ngang so với đầu năm. Ở quy mô hợp nhất, nợ phải trả ở mức 10.322 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 9.633 tỷ đồng, đưa hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E) xuống 1,07 lần so với 1,09 lần cuối năm 2024. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản giảm từ 52,2% xuống 51,7%.
Cơ cấu nợ chủ yếu là ngắn hạn với tỷ trọng 70,9%, cao gấp hơn 2,4 lần nợ dài hạn, phản ánh nhu cầu vốn lưu động để phục vụ sản xuất và nhập khẩu nguyên liệu.
Tại cùng thời điểm, tổng vay và nợ thuê tài chính đạt 6.842 tỷ đồng, tăng 6,7% so với cuối năm 2024. Trong đó, dư nợ ngắn hạn 4.400 tỷ đồng, chiếm 64,3%, còn dư nợ dài hạn 2.442 tỷ đồng, chiếm 35,7%. So với đầu năm, vay ngắn hạn tăng 8,9%, trong khi vay dài hạn tăng 2,9%.
Trong nửa đầu năm 2025, chi phí tài chính ghi nhận 269 tỷ đồng, giảm 15,8% so với cùng kỳ 2024. Chi phí lãi vay đạt 163 tỷ đồng, chiếm 60,6% tổng chi phí tài chính và giảm 7% so với cùng kỳ. Doanh nghiệp đồng thời phát sinh 92 tỷ đồng lỗ chênh lệch tỷ giá từ các khoản vay ngoại tệ, chiếm 34,3% tổng chi phí tài chính. Biên lợi nhuận gộp đạt 13,5% và biên lợi nhuận ròng ở mức 7,1%.
Khả năng thanh toán lãi vay có sự cải thiện rõ rệt. Lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT) đạt 651 tỷ đồng, trong khi chi phí lãi vay 269 tỷ đồng, đưa hệ số khả năng trả lãi (ICR) lên 2,42 lần so với 0,88 lần của năm 2024. Nếu tính theo EBITDA, hệ số này đạt 2,63 lần, tăng từ 1,88 lần năm trước.
Về dòng tiền, trong nửa đầu năm 2025, Vinatex ghi nhận dòng tiền kinh doanh âm 208 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ 2024 dương 349 tỷ đồng. Ngược lại, hoạt động vay nợ ghi nhận vay mới 6.014 tỷ đồng và trả nợ gốc 5.796 tỷ đồng, tạo dòng tiền thuần dương 218 tỷ đồng, trái ngược với mức âm 208 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.
Nợ phải trả của Dệt May Thành Công tăng 11% trong nửa đầu 2025
CTCP Dệt May – Đầu tư – Thương mại Thành Công (HoSE: TCM) có biên lợi nhuận gộp nửa đầu năm 2025 của ở mức 17%, trong khi biên lợi nhuận ròng khoảng 9%, khiến khả năng tích lũy vốn tự có còn hạn chế. Vì vậy, nợ vay trở thành nguồn bổ sung thanh khoản quan trọng cho hoạt động của công ty.
Theo báo cáo tài chính bán niên soát xét 2025, tính đến ngày 30/6, tổng nợ phải trả đạt 1.807 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm. Trong cơ cấu, nợ ngắn hạn chiếm gần 89,5% với 1.617 tỷ đồng, còn nợ dài hạn đạt 190 tỷ đồng, tăng 80% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E) ở mức 0,77 lần, cao hơn mức 0,71 lần cuối năm 2024, trong khi tỷ lệ nợ trên tổng tài sản tăng từ 41,7% lên 43,6%.
Đến cuối tháng 6/2025, tổng vay và nợ thuê tài chính đạt khoảng 1.040 tỷ đồng, tăng 34,9% so với mức 771 tỷ đồng cuối năm 2024. Trong đó, vay ngắn hạn gần 895 tỷ đồng, chiếm 86% tổng dư nợ và tăng 25,6% so với đầu năm; vay dài hạn gần 146 tỷ đồng, chiếm 14% và tăng 143,9% so với cuối năm trước. Cơ cấu vay ngân hàng tập trung tại Vietcombank 406 tỷ đồng (45%), BIDV 200 tỷ đồng (22%) và VietinBank 123 tỷ đồng (14%).
Trong nửa đầu năm 2025, chi phí lãi vay đạt 20,9 tỷ đồng. Với EBIT ghi nhận 221 tỷ đồng, hệ số khả năng trả lãi (ICR) đạt 10,6 lần, thấp hơn mức 15,7 lần cùng kỳ 2024. Nếu tính theo EBITDA, chỉ số này đạt 13,5 lần so với 20,8 lần của năm trước. Điều này phản ánh chi phí vốn vay vẫn được bù đắp bởi lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về dòng tiền, lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh trong nửa đầu năm 2025 âm 1.967 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ 2024 dương 116 tỷ đồng. Ngược lại, dòng tiền từ hoạt động tài chính dương 169 tỷ đồng, cao gấp hơn 15 lần cùng kỳ, nhờ vay mới 1.313 tỷ đồng và trả nợ gốc 1.089 tỷ đồng, giảm 16% so với năm trước.
Cơ cấu doanh thu tháng 7 của Dệt May Thành Công cho thấy dệt may chiếm 74%, vải 21% và sợi 4%. Doanh thu vải tăng nhờ nhu cầu nội địa, góp phần bù đắp sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ do tác động thuế quan.
Công ty cũng đã nhận trước nhiều đơn hàng cho quý IV/2025 – giai đoạn cao điểm lễ hội và Tết. Thuế đối ứng 20% mà Mỹ áp dụng với hàng dệt may Việt Nam mang lại lợi thế so với Trung Quốc và Ấn Độ, đồng thời các hiệp định EVFTA và CPTPP tiếp tục hỗ trợ mở rộng thị trường EU và các khu vực khác.
Trong cơ cấu xuất khẩu 7 tháng, châu Á chiếm 64%, trong đó Nhật Bản 20%, Hàn Quốc 19% và Việt Nam 16%. Châu Mỹ chiếm 27%, với Canada 16% và Mỹ 10%. Châu Âu chiếm 10%, trong đó thị trường Anh chiếm 4%. Riêng trong tháng 7, xuất khẩu sang EU tăng nhờ tận dụng ưu đãi từ EVFTA.
Đơn hàng kín lịch, nợ vay trở thành động lực vốn lưu động
Ngành dệt may Việt Nam bước vào nửa cuối năm 2025 với sự phục hồi đơn hàng. Trong bảy tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 26,33 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ. Đơn hàng đã được ký kín đến hết quý III và tiếp tục mở rộng sang quý IV. Thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản duy trì vai trò chủ lực, trong khi Australia, Hàn Quốc, Trung Đông và Nam Mỹ ghi nhận thêm đóng góp.
Khối lượng đơn hàng lớn cùng chu kỳ sản xuất – xuất khẩu kéo dài làm gia tăng nhu cầu vốn lưu động để nhập khẩu nguyên phụ liệu, triển khai sản xuất và bảo đảm tiến độ giao hàng. Trong giai đoạn này, nợ vay tài chính, đặc biệt là vay ngắn hạn, được sử dụng làm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất.
Ngành dệt may có điều kiện tiếp cận tín dụng, trong đó vốn vay ngoại tệ với lãi suất ưu đãi được bảo đảm bằng các hợp đồng xuất khẩu lớn. Nguồn vốn vay này được sử dụng để tăng năng lực sản xuất và duy trì hoạt động.
Trong dài hạn, vốn vay được bố trí cho kế hoạch đầu tư công nghệ, nâng cấp dây chuyền và phát triển sản phẩm mới như sợi tái chế hoặc vải thân thiện môi trường. Doanh nghiệp qua đó đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do.