Một mục tiêu được đặt ra trong Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2023 là phát triển các dịch vụ dữ liệu để tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người dân, nhất là người có hoàn cảnh khó khăn và người khuyết tật.
Nhà nước tạo lập, định hướng, mở và chia sẻ dữ liệu cho người dân
Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt ngày 2/2.
>> Cảnh giác với mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền kép dịp Tết Nguyên đán 2024
Theo chia sẻ của Viện Chiến lược TT&TT (Bộ TT&TT), tư tưởng xuyên suốt của Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030 Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia xây dựng, phát triển dữ liệu, sử dụng dữ liệu làm công cụ để cải cách hành chính, tạo ra giá trị kinh tế, nâng cao sự cạnh tranh và phục vụ lợi ích người dân.
Trong đó, Nhà nước tạo lập, định hướng, mở và chia sẻ dữ liệu cho người dân, doanh nghiệp khai thác sử dụng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; người dân, doanh nghiệp tham gia tích cực trong việc thu thập, chuẩn hóa, làm giàu các dữ liệu có giá trị. Đồng thời, hình thành văn hóa dữ liệu, chuyển đổi nhận thức từ tra cứu dữ liệu sang chia sẻ, tái sử dụng dữ liệu, từ sở hữu riêng dữ liệu sang chia sẻ dữ liệu sử dụng chung và cùng hưởng các lợi ích mà dữ liệu mang lại.
Bên cạnh việc xác định rõ các quan điểm và tầm nhìn đến năm 2030, Chiến lược cũng vạch ra 4 nhóm mục tiêu cần đạt, bao gồm: Phát triển hạ tầng dữ liệu; phát triển dữ liệu phục vụ Chính phủ số; phát triển dữ liệu số phục vụ kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng.
Cụ thể, về phát triển hạ tầng dữ liệu, Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030, 100% các Trung tâm dữ liệu quốc gia, Trung tâm dữ liệu vùng, khu vực, Trung tâm cấp quốc gia về lưu trữ dữ liệu lớn và tính toán hiệu năng cao trên cả nước được bảo đảm kết nối thành công. Từ đó, tạo thành một mạng lưới chia sẻ năng lực tính toán, xử lý dữ liệu lớn phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của đất nước.
Cũng đến năm 2030, các nền tảng điện toán đám mây Chính phủ và các nền tảng ứng dụng trên thiết bị di động Make in Viet Nam đảm bảo sẵn sàng đáp ứng 100% nhu cầu lưu trữ, thu thập, kết nối, chia sẻ dữ liệu của Việt Nam, nhu cầu đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng và bảo mật thông tin theo cấp độ.
Về phát triển dữ liệu phục vụ Chính phủ số, một trong các mục tiêu là 100% các cơ sở dữ liệu quốc gia trong danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử hoàn thành việc số hóa, cập nhật và đưa vào sử dụng hiệu quả; được kết nối, chia sẻ với kho dữ liệu tổng hợp tại Trung tâm dữ liệu quốc gia và kết nối, chia sẻ trên phạm vi toàn quốc.
Cùng với đó, 100% các cơ quan nhà nước cấp bộ, tỉnh mở và cung cấp dữ liệu mở đảm bảo chất lượng; 100% hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính được số hóa; tối thiểu 80% dữ liệu về kết quả thực hiện các thủ tục hành chính được tái sử dụng, chia sẻ theo quy định đảm bảo người dân và doanh nghiệp chỉ phải cung cấp thông tin một lần khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thực hiện các thủ tục hành chính; Tích hợp kết quả xử lý công việc của cán bộ, công chức, viên chức vào phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc của từng đơn vị...
Sẽ thí điểm 5 sàn giao dịch dữ liệu
Đối với phát triển dữ liệu phục vụ kinh tế số và xã hội số, đến năm 2030, hoàn thành 100% các bộ dữ liệu ngành nông nghiệp; hoàn thành 100% các bộ dữ liệu ngành công nghiệp, thương mại và năng lượng.
90% các di sản văn hóa, di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt được số hóa, lưu trữ đầy đủ dữ liệu và hình thành thư viện số, di sản số, có hiện diện số trên môi trường mạng để mọi người dân, khách du lịch có thể truy cập, tra cứu tìm hiểu thuận lợi trên môi trường số. 100% các danh lam thắng cảnh, địa điểm du lịch trong nước được hoàn thành việc số hóa, lưu trữ và chia sẻ thông tin rộng rãi.
Hoàn thiện 100% cơ sở dữ liệu về bảo hiểm xã hội cho người lao động. Dữ liệu chuẩn hóa sổ lao động điện tử, tích hợp với dữ liệu về học tập suốt đời, dữ liệu về đào tạo nghề của người lao động được triển khai, hoàn thiện cho 100% người lao động đóng bảo hiểm xã hội.
100% các bộ dữ liệu mở về lực lượng, thị trường lao động việc làm, nhu cầu tuyển dụng lao động và yêu cầu trình độ, kỹ năng tương ứng được cung cấp và đảm bảo cập nhật chính xác, kịp thời, làm cơ sở triển khai các giải pháp dự báo nhu cầu, sự biến động về lao động, việc làm.
100% dữ liệu giám sát, quan trắc tự động việc xả thải của các khu công nghiệp, các điểm nóng về ô nhiễm môi trường được đảm bảo đáp ứng nhu cầu kết nối về trung tâm giám sát tập trung của ngành TN&MT theo thời gian thực, phục vụ việc phân tích đưa ra các cảnh báo khi có nguy cơ về sự cố môi trường.
Đáng chú ý, Chiến lược còn đặt mục tiêu phát triển thị trường dữ liệu, hoàn thành thí điểm, thử nghiệm 5 sàn giao dịch dữ liệu tạo môi trường mua bán, trao đổi dữ liệu có sự giám sát, đảm bảo an toàn, tuân thủ quy định của pháp luật. Đồng thời, phát triển các dịch vụ dữ liệu để tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người dân, nhất là người có hoàn cảnh khó khăn và người khuyết tật; xuất khẩu tri thức của lao động Việt Nam ra nước ngoài dựa trên các công việc mới với dữ liệu.
Về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, mục tiêu là 100% các cơ sở dữ liệu quốc gia cơ sở dữ liệu dùng chung, chuyên ngành và cơ sở dữ liệu quan trọng của các bộ, ngành, địa phương được triển khai phương án bảo đảm an toàn thông tin theo cấp độ và mô hình bảo vệ 4 lớp; đồng thời triển khai các hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin theo quy định của pháp luật về an ninh mạng.
Để hiện thực hóa các mục tiêu đề ra, trong Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ đã xác định cụ thể các nhiệm vụ trọng tâm quốc gia; những nhiệm vụ trọng tâm của các bộ, ngành, địa phương cùng các giải pháp sẽ được tập trung triển khai trong thời gian tới. Bộ TT&TT là cơ quan được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các hội, hiệp hội và các doanh nghiệp trong công tác quản lý, theo dõi, giám sát việc tổ chức thực hiện Chiến lược. |
Quy định mới giúp giảm thiểu các hành vi tiêu cực trên không gian mạng
Đẩy nhanh tiến độ, tiếp tục tạo bước chuyển biến căn bản trong triển khai thực hiện Đề án 06