Thị trường 10.000 tỷ USD bị 'lãng quên', doanh nghiệp Việt Nam được thúc giục tận dụng cơ hội
Tiềm năng là vậy nhưng tại Việt Nam việc khai thác thị trường Halal còn nhỏ lẻ.
Tại Hội thảo khoa học quốc tế “Tiếp cận thị trường Halal toàn cầu - Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam” diễn ra ngày 25/6, do Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) phối hợp tổ chức, nhiều chuyên gia và đại diện các đơn vị thống nhất nhận định rằng thị trường Halal có tiềm năng rất lớn nhưng đến nay vẫn chưa được doanh nghiệp Việt Nam khai thác một cách hiệu quả.
PGS.TS Đinh Công Hoàng, thuộc Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, gọi Halal là thị trường bị “lãng quên”. Theo ông, đây là một thị trường quy mô lớn, ước đạt 7.000 tỷ USD trong năm 2024 và có thể tăng lên 10.000 tỷ USD vào năm 2028, với tốc độ tăng trưởng hàng năm dao động từ 6-8%.
Ông cũng cho biết, dân số Hồi giáo trên thế giới hiện có quy mô lớn và vẫn đang phát triển. “Tiềm năng là vậy nhưng tại Việt Nam việc khai thác thị trường Halal còn nhỏ lẻ”, PGS.TS Đinh Công Hoàng cho hay. Ông cho biết kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Halal từ Việt Nam sang Trung Đông trong năm 2024 ước đạt gần 700 triệu USD.
![]() |
Toàn cảnh hội thảo. Nguồn: congthuong.vn |
>> Bộ Công Thương họp bàn về tiến độ dự án trọng điểm quốc gia đi qua 4 tỉnh
Các thương hiệu Halal của Việt Nam vẫn chưa có sự hiện diện rõ nét và bền vững tại các hệ thống phân phối lớn ở Trung Đông, ASEAN và Nam Á. Đặc biệt, Việt Nam vẫn thiếu một chuỗi cung ứng Halal hoàn chỉnh. Việc chưa đầu tư đồng bộ vào các hạng mục thiết yếu như kho lạnh, giết mổ, chế biến, logistics hay trung tâm kiểm nghiệm đạt chuẩn Halal… đang là những rào cản lớn, khiến chi phí tăng cao và kéo dài thời gian đưa sản phẩm ra thị trường.
PGS.TS Đinh Công Hoàng cũng cho biết, Chính phủ Việt Nam rất quan tâm phát triển ngành Halal. Theo đó, Chính phủ đã xây dựng định hướng chiến lược về phát triển ngành Halal đến năm 2030, trong đó có Đề án về "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030"; thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia, hoàn thiện các quy định pháp lý và tiêu chuẩn về Halal quốc gia…
Dù vậy, để ngành Halal thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ông cho rằng Việt Nam vẫn cần vượt qua nhiều thách thức. Một trong những rào cản lớn là sự thiếu hiểu biết về Halal của cả người dân lẫn doanh nghiệp. Quá trình chứng nhận Halal trong nước vẫn còn phức tạp và chưa đồng bộ với các tiêu chuẩn quốc tế.
Ngoài ra, chi phí đầu tư cho dây chuyền sản xuất, trang thiết bị chuyên dụng, nguyên liệu đảm bảo an toàn và đáp ứng yêu cầu Halal vẫn ở mức cao. Việt Nam hiện cũng chưa hình thành được một hệ sinh thái Halal đầy đủ, bao gồm sản xuất, dịch vụ, cơ sở hạ tầng và sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, để có thể phát triển lĩnh vực này một cách bền vững.
Để vượt qua thách thức này, PGS.TS Đinh Công Hoàng khuyến nghị, các cơ quan quản lý Nhà nước “bắt tay” cùng cộng đồng doanh nghiệp triển khai hiệu quả Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”.
Biện pháp tiếp theo là nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp và các cấp chính quyền tại Việt Nam về tiềm năng thị trường Halal; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, xúc tiến thương mại với các nước Hồi giáo, đồng thời nghiên cứu ký kết các hiệp định thương mại tự do với các thị trường Halal tiềm năng và tận dụng lợi thế từ các hiệp định khu vực.
Việt Nam cần thành lập cơ quan quản lý Halal, triển khai tiêu chuẩn hóa, thử nghiệm, cấp chứng nhận Halal và thiết lập các thỏa thuận công nhận tiêu chuẩn lẫn nhau với các quốc gia Hồi giáo.
Đồng thời, Việt Nam cần xây dựng hệ sinh thái Halal, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm Halal trọng điểm như thực phẩm, nông sản, mỹ phẩm, du lịch, may mặc, giày dép… và đẩy mạnh chuyển đổi số, thương mại điện tử phục vụ xuất khẩu sang các thị trường Halal.