TS. Lê Xuân Nghĩa chỉ ra mặt trái công nghiệp FDI: Xuất khẩu 400 tỷ USD nhưng Việt Nam chỉ giữ lại 17 tỷ
Dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã vượt mốc 400 tỷ USD, nhưng theo TS. Lê Xuân Nghĩa, phần giá trị thực sự thuộc về nền công nghiệp trong nước chỉ khoảng 17 tỷ USD, cho thấy gia tăng nội địa còn quá thấp.
Một nền công nghiệp 'hộ công' cho thế giới
Nêu quan điểm tại Hội thảo "Xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường" gần đây, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia phân tích: Chúng ta xuất khẩu hơn 400 tỷ USD, nhưng 300 tỷ USD là của doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp Việt chỉ làm được 100 tỷ USD - trong đó, 50 tỷ USD đến từ nông nghiệp, nơi có giá trị gia tăng nội địa lên đến 90%.
Còn lại, chỉ 50 tỷ USD đến từ khu vực công nghiệp – con số nghe có vẻ đáng nể nhưng khi “bóc tách”, hóa ra phần thực sự “của người Việt” chỉ chiếm 35%. Tức là, nếu quy đổi thực chất, chỉ khoảng 17 tỷ USD từ xuất khẩu công nghiệp là có hàm lượng Việt Nam.
“Toàn bộ công nghiệp vĩ đại mà chúng ta tự hào: Từ điện tử, thiết bị viễn thông, linh kiện, đều là của nước ngoài. Hàm lượng Việt trong xuất khẩu FDI là 1,7%. Nghĩa là, chúng ta đang xuất khẩu hộ cho họ, chứ không phải cho ta", ông Nghĩa nhấn mạnh và cho rằng, đó là những con số “rất thảm hại”.
Ông gọi hiện trạng này là “nền công nghiệp hộ công” – nơi Việt Nam trở thành một mắt xích thuê ngoài trong chuỗi giá trị toàn cầu, thiếu nền tảng công nghệ, thiếu doanh nghiệp nội địa dẫn dắt, và thiếu chiến lược công nghiệp độc lập.
Nhìn lại hành trình phát triển công nghiệp, Việt Nam từng tự hào với việc thu hút hàng loạt tập đoàn FDI, nhưng theo TS. Nghĩa, việc coi FDI là thành tích đã che khuất đi một sự thật: Việt Nam chủ yếu gia công giá rẻ, giá trị gia tăng rất thấp, và lợi nhuận thực sự nằm ở các tập đoàn nước ngoài.
“Chúng ta đã quá hô hào trải thảm đỏ cho nước ngoài mà không kiểm soát được cái lõi. Về bản chất, đây là một kiểu "xuất khẩu lao động tại chỗ và ô nhiễm môi trường". Sự thẳng thắn này, theo ông, đã được Tổng Bí thư Tô Lâm lần đầu tiên nêu ra công khai. Và đó là điểm ngoặt chính trị quan trọng: Thừa nhận hạn chế cốt lõi của mô hình tăng trưởng dựa vào FDI, mở ra không gian chính sách cho chiến lược tự lực, tự cường.
Ông kể lại cuộc trò chuyện với một vị đại sứ nước ngoài, người sau khi đọc bài phát biểu của Tổng Bí thư, đã bình luận thẳng thắn: “Philippines họ không cần xuất khẩu lao động tại chỗ, mà đưa hẳn ra nước ngoài với mức lương gấp 5 lần. Việt Nam thì giữ người ở lại, nhận 3 tỷ USD mỗi năm, trong khi Philippines nhận về 131 tỷ USD từ kiều hối. Vậy tại sao không xây trường đào tạo nghề, đào tạo công nhân để xuất khẩu thực sự, có giá trị cao, lại đỡ ô nhiễm môi trường?”
Câu hỏi ấy đặt ra vấn đề lớn về tư duy chính sách: Tại sao Việt Nam chưa có một chiến lược đào tạo xuất khẩu lao động chuyên nghiệp, bài bản như Philippines? Việc phụ thuộc vào FDI không chỉ khiến chúng ta tụt hậu về công nghệ, mà còn đánh mất cơ hội kiếm nguồn thu bền vững, chính đáng từ chính nguồn nhân lực dồi dào.
“Ngay cả bài toán xuất khẩu lao động thôi cũng phải tính lại. Phải đào tạo, đầu tư bài bản, thì mới có thể chuyển từ xuất khẩu rẻ mạt sang xuất khẩu có chất lượng. Nhưng muốn làm được thì phải chấp nhận thay đổi bằng máu và nước mắt", TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định.
![]() |
TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Ảnh minh hoạ. |
Cần chuyển hướng vốn về nông nghiệp và dịch vụ du lịch
Theo TS. Nghĩa, trong ngắn và trung hạn, Việt Nam cần dồn lực tài chính cho hai khu vực có giá trị gia tăng nội địa cao nhất: Nông nghiệp và dịch vụ - du lịch.
"Nông nghiệp hiện chiếm 50 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, trong đó có đến 45 tỷ USD là giá trị Việt thực thụ. Đây là nền tảng có thể mở rộng, nhất là khi áp dụng công nghệ chế biến sâu, logistics lạnh và chuỗi cung ứng hiện đại", vị chuyên gia phân tích.
Ông cho rằng, Ngân hàng Nhà nước cần có định hướng tín dụng chiến lược, ưu tiên vốn cho khu vực nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao, xuất khẩu bền vững và liên kết vùng.
Khu vực thứ hai là dịch vụ, đặc biệt là du lịch – lĩnh vực đang đóng góp tới 40% GDP nhưng vẫn chưa phát huy hết tiềm năng.
“Khách sạn thì của anh, bãi biển thì không ai mang đi đâu được. Dịch vụ có tính độc lập, tự chủ cao. Nhưng nghịch lý là Bộ Chính trị đã có hẳn một nghị quyết riêng về phát triển du lịch, thế nhưng chúng ta làm rất yếu,” ông Nghĩa nhận định thẳng thắn.
Một trong những rào cản lớn là thủ tục nhập cảnh. “Nghe trên báo đài thì rất hay, nhưng thực tế người nước ngoài phải chờ visa tới 20 ngày, thậm chí không biết có được cấp không. Đủ thứ phiền toái”, ông chia sẻ lại lời phàn nàn của nhiều nhà đầu tư và du khách quốc tế.
Điểm nhấn trong thông điệp của ông Nghĩa chính là mặt tiền Biển Đông – lợi thế địa chiến lược hiếm có của Việt Nam.
"Tôi nhớ có một tỷ phú Hồng Kông từng nói với mình: Việt Nam của ông chả có gì ngoài mặt tiền Biển Đông. Nếu các ông không biết bảo vệ, không biết khai thác, thì nghèo suốt đời", ông Nghĩa kể lại, và kiến nghị cần xem Biển Đông là nguồn tài sản chiến lược, là nơi hội tụ du lịch, logistics, cảng biển, dịch vụ hậu cần… để tạo nên giá trị mới thực sự của Việt Nam.
>>> Không để rơi vào ‘bẫy’ FDI: Việt Nam học gì từ các nước Đông Á?