Cần xem lại vai trò của doanh nghiệp FDI
Chia sẻ với PV Tiền Phong, một cựu quan chức ngành Công Thương cho biết, nhìn vào chênh lệch thương mại của Việt Nam và Hoa Kỳ trong 3 năm qua có thể dễ dàng nhận thấy các mặt hàng xuất khẩu chính đóng góp vào cán cân thương mại của Việt Nam hiện chủ yếu nằm ở trong tay các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam.
![]() |
Bộ trưởng Công Thương thăm, làm việc tại một doanh nghiệp may. Ảnh: Nguyễn Bằng |
Theo vị cựu lãnh đạo ngành công thương, 6 nhóm ngành có mức độ gia tăng xuất khẩu vào Hoa Kỳ lớn hiện nay là nhóm điện tử với các thiết bị điện tử và linh kiện (riêng năm 2022, nhóm hàng này đạt 38,97 tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ); Máy móc và thiết bị cơ khí; Đồ nội thất và các sản phẩm liên quan; dệt may, giày dép và nông sản (bao gồm các mặt hàng như cà phê, hạt điều và thủy sản).
Theo vị này, nhìn vào số liệu xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong 3 năm qua, có thể thấy sự gia tăng xuất khẩu rất nhanh và ổn định ở nhiều ngành nghề. Như năm 2022, các doanh nghiệp FDI đóng góp khoảng 74% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Các năm 2023 - 2024, kim ngạch xuất khẩu của nhóm này cũng đều vượt hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả Việt Nam. Trong số các doanh nghiệp FDI đóng góp nhiều nhất vào xuất khẩu phải kể đến trường hợp của Samsung, mặc dù có sự biến động do ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế toàn cầu, tập đoàn này vẫn duy trì mức xuất khẩu điện thoại và linh kiện trên 50 tỷ USD/năm. Trong đó, từ tháng 2/2023 đến tháng 1/2024, thị trường Hoa Kỳ chiếm 46% tổng số lô hàng điện thoại Samsung Galaxy xuất khẩu từ Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp FDI khác trong lĩnh vực điện tử cũng đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ như Apple, LG và Intel.
Vị quan chức cũng cho rằng, ngoài đóng góp về tạo việc làm, điều đáng lo của những năm gần đây chính là sự dịch chuyển sản xuất của nhiều doanh nghiệp FDI sang Việt Nam nhằm mục đích né thuế. Ngành dệt may, da giày, điện tử và đồ gỗ, thủy sản chứng kiến nhiều nhất sự dịch chuyển này. Theo đó, không ít doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư sản xuất tại Việt Nam tập trung ở các ngành nghề cũng tạo mối lo “rửa nguồn xuất xứ” và đang khiến các mặt hàng xuất khẩu nói chung của Việt Nam bị rơi vào “tầm ngắm” của nhiều nước. Vì vậy, thời gian tới, các cơ quan chức năng cũng cần chú ý đến những chuyển dịch của khối doanh nghiệp FDI để Việt Nam không trở thành nơi “chịu trận chung” khi bị áp thuế.
Trong cơ cấu xuất khẩu sang Hoa Kỳ hiện nay, lớn nhất vẫn là hàng điện tử. Kế đó là máy móc và may mặc, da giày. Đây là lợi thế trong tay các doanh nghiệp FDI Nhật Bản và Hàn Quốc. Việc bị áp thuế tới 46% sẽ khiến chúng ta mất lớn do các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam hiện đều là doanh nghiệp đầu chuỗi. Họ khó xuất khẩu, bán hàng thì mình là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuyên gia công thuê sẽ rơi vào tình trạng bị cắt giảm, thiếu hụt đơn hàng. Đây là mối lo rất lớn do doanh nghiệp Việt hiện không xuất siêu được nhiều, đặc biệt là ngành cơ khí”, Tổng giám đốc một doanh nghiệp cơ khí lớn ở miền Bắc trả lời PV Tiền Phong.
Tại một cuộc họp của Bộ Công Thương cách đây vài tuần, ông Đinh Quốc Thái, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, hiệp hội đã nhận được cảnh báo sớm của Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ về việc đang có những cuộc điều tra phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ liên quan đến nguồn gốc của thép Trung Quốc giá rẻ đang được nhập ồ ạt vào Việt Nam để rồi sau đó lại được xuất khẩu sang các nước khác, trong đó có Hoa Kỳ. Nếu tình trạng này không có giải pháp can thiệp kịp thời, Việt Nam sẽ có nguy cơ thành nơi rửa nguồn xuất khẩu cho mặt hàng thép của Trung Quốc khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ và hết sức rủi ro về lâu dài cho các doanh nghiệp Việt.
![]() |
Doanh nghiệp lo ứng phó với việc bị áp thuế đối ứng của Hoa Kỳ. Ảnh: Nguyễn Bằng |
Doanh nghiệp cần tầm nhìn xa
Đánh giá về tác động của hàng rào thuế quan thương mại mới, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng, tại thời điểm hiện nay, thương mại quốc tế đang bị đe dọa bởi sự xuất hiện của chủ nghĩa đơn phương. Nếu như toàn cầu hóa và khu vực hóa đều hướng tới thương mại tự do hơn giữa các nền kinh tế thì chủ nghĩa đơn phương đi ngược lại xu hướng trên. Thay vì mở cửa, giảm bớt rào cản thì phương châm của chủ nghĩa này là dựng thêm các hàng rào, đánh thuế cao hàng hóa nhập khẩu. Theo ông Hải, thực ra, chủ nghĩa đơn phương không có gì mới. Rất nhiều năm trước đây, trước khi GATT ra đời thì hoạt động thương mại quốc tế vẫn vấp phải các loại hàng rào khác nhau, trong đó phổ biến nhất là thuế quan (thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) và một số biện pháp phi thuế quan như giấy phép, hạn ngạch. Việt Nam cũng đã làm quen với các biện pháp này thông qua các vụ kiện phòng vệ thương mại đối với cá tra, cá basa nhập khẩu vào Hoa Kỳ, giày thể thao nhập khẩu vào EU. Tính đến cuối năm 2024, đã có khoảng 273 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam tại 25 thị trường. Đây đều là những thị trường chủ lực của hàng hóa xuất khẩu, bao gồm cả những thị trường có hiệp định thương mại tự do.
Theo một cựu lãnh đạo ngành công thương, ngoài đóng góp về tạo việc làm, điều đáng lo của những năm gần đây chính là sự dịch chuyển sản xuất của nhiều doanh nghiệp FDI sang Việt Nam nhằm mục đích né thuế. Ngành dệt may, da giày, điện tử và đồ gỗ, thuỷ sản chứng kiến nhiều nhất sự dịch chuyển này.
Về việc Tổng thống Donald Trump sử dụng thuế quan như một trong những công cụ chính nhằm định hình lại chính sách kinh tế và đối ngoại với các nước, ông Hải cho rằng, việc tăng thuế nhập khẩu không có gì khác ngoài mục tiêu tăng thu thuế cho ngân sách, giảm thâm hụt thương mại. Nhưng quan trọng hơn là Tổng thống Hoa Kỳ muốn gửi thông điệp để các nước liên quan điều chỉnh chính sách theo yêu cầu của Nhà Trắng, và để doanh nghiệp đang đầu tư ở các nước đem tiền trở lại đầu tư ở Hoa Kỳ, qua đó hy vọng đem lại việc làm và thịnh vượng. Với doanh nghiệp lúc này, cần có tầm nhìn xa, sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ, minh bạch về quá trình sản xuất cũng như chủ động tìm các thị trường ngách, thị trường mới, chuẩn bị cho các kịch bản khác để có sự chủ động.
>> Doanh nghiệp FDI tại Việt Nam lạc quan với tình hình sản xuất kinh doanh quý II