VCCI cho biết để giảm nghĩa vụ thuế phải nộp thuế VAT 10%, không ít cá nhân, doanh nghiệp đã thành lập thêm doanh nghiệp tại nước ngoài để cung cấp dịch vụ cho khách hàng trên thế giới.
VCCI vừa có văn bản góp ý Dự thảo Luật Thuế Giá trị gia tăng. Điều 9.1 của Dự thảo sửa đổi theo hướng sẽ đánh thuế đối với hầu hết dịch vụ xuất khẩu thay vì cho phép hưởng thuế suất 0% như trước đây. Các lĩnh vực dịch vụ xuất khẩu vẫn được hưởng thuế suất 0% chỉ còn vận tải quốc tế, cho thuê phương tiện vận tải ngoài lãnh thổ Việt Nam và một số dịch vụ liên quan.
VCCI: Thuế VAT với doanh nghiệp xuất khẩu làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. |
Theo đó, các lĩnh vực dịch vụ khác sẽ phải chịu nghĩa vụ thuế cao hơn, tương ứng với từng loại dịch vụ cụ thể như 10% hoặc 5% hoặc không được khấu trừ đầu vào do thuộc diện không chịu thuế.
>>Lộ diện doanh nghiệp phân bón có thể tăng đến 50% lợi nhuận nhờ luật VAT sửa đổi
Theo VCCI, chính sách này sẽ làm tăng chi phí thuế của nhiều doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ cho khách hàng tại nước ngoài. Các lĩnh vực chịu tác động nhiều nhất là kinh doanh trên môi trường internet, sản xuất nội dung số, sản xuất các ứng dụng, trò chơi điện tử, dịch vụ nghe nhìn, giải trí, dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ tư vấn các loại, dịch vụ thiết kế, dịch vụ máy tính, dịch vụ thông tin…
“Hầu hết các doanh nghiệp này hiện đang phải cạnh tranh với đối thủ đến từ các nước đang phát triển khác. Nếu họ phải chịu thuế giá trị gia tăng 10% hoặc 5% thì có nguy cơ mất khách hàng, mất thị phần, khó có cơ hội phát triển, từ đó mất đi việc làm trong nước và giảm nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Đối với lĩnh vực phần mềm, sản phẩm phần mềm xuất khẩu sẽ chuyển từ diện 0% sang diện không chịu thuế, tức là các doanh nghiệp không được khấu trừ đầu vào, khiến chi phí sản xuất tăng từ 2-3%”, VCCI nhấn mạnh.
Luật Thuế GTGT hiện hành cho phép dịch vụ xuất khẩu hưởng thuế suất 0%. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, họ vẫn thường bị áp mức thuế 10% do cán bộ thuế không phân biệt được đâu là dịch vụ tiêu dùng trong nước, đâu là dịch vụ xuất khẩu.
“Các doanh nghiệp đã cố gắng thuyết minh bằng việc cung cấp cho cơ quan thuế rất nhiều thông tin như dữ liệu của các nền tảng trung gian (Google, Apple…), IP của người dùng, dữ liệu thanh toán ngân hàng, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản của khách hàng, hợp đồng, email trao đổi…”, VCCI nhấn mạnh.
Thậm chí, theo VCCI có doanh nghiệp cung ứng dịch vụ trên internet đã buộc phải tách sản phẩm của mình thành hai phiên bản để cung cấp cho hai thị trường khác nhau nhưng vẫn không được chấp nhận.
“Trước tình trạng đó, không ít cá nhân, doanh nghiệp đã thành lập thêm doanh nghiệp tại nước ngoài để cung cấp dịch vụ cho khách hàng trên thế giới, nhằm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp”, VCCI phán ánh.
Theo VCCI việc phân loại người dùng trong nước và người dùng tại nước ngoài trên môi trường internet hiện đã có giải pháp. Hiện nay, OECD đã có hướng dẫn về việc xác định nơi tiêu dùng dịch vụ trên môi trường số và được nhiều quốc gia áp dụng (OECD International VAT/GST Guidelines). Thậm chí, Việt Nam cũng đã tiếp thu khuyến nghị này của OECD khi thu thuế dịch vụ nhập khẩu.
Cụ thể, tại Thông tư 80/2021/TT-BTC, Điều 77 đã quy định nhà cung cấp tại nước ngoài, khi cung cấp dịch vụ vào Việt Nam sẽ phải kê khai và nộp thuế. Tại khoản 3 của Điều này, việc xác định doanh thu đó được phát sinh tại Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc lấy nhiều nguồn thông tin không mâu thuẫn nhau như thông tin thẻ tín dụng, thông tin tài khoản ngân hàng, địa chỉ thanh toán, địa chỉ giao hàng, địa chỉ nhà, mãng vùng điện thoại, địa chỉ IP, vị trí đường dây điện thoại cố định…
Như vậy, pháp luật đã yêu cầu doanh nghiệp nước ngoài phải sử dụng những thông tin trên để thu thuế dịch vụ nhập khẩu, nhưng lại không cho doanh nghiệp trong nước sử dụng những thông tin đó để được hưởng thuế suất 0% khi cung cấp dịch vụ xuất khẩu.
Với những lý do trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định về thuế giá trị gia tăng dối với dịch vụ xuất khẩu theo hướng vẫn cho phép các dịch vụ này được hưởng thuế suất 0%, đồng thời quy định cụ thể về việc xác định doanh thu đến từ nước ngoài theo phương pháp tương tự như khi đánh thuế dịch vụ nhập khẩu.