Ông là con của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi Ỷ Lan, được biết đến như là vị vua có thời gian ở ngôi lâu nhất trong lịch sử.
Vị vua có thời gian ở ngôi lâu nhất trong lịch sử
Lý Nhân Tông ( 1066 - 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1072 đến năm 1128, tổng cộng 55 năm. Vua Lý Nhân Tông được xem là vị vua có thời gian ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các vương triều phong kiến Việt Nam. Thời kỳ này cũng đánh dấu giai đoạn thịnh vượng nhất trong lịch sử nhà Lý, và là một trong những giai đoạn văn minh bậc nhất trong sử Việt.
Trong thời gian trị vì của mình, Lý Nhân Tông đã đặt tổng cộng 8 niên hiệu và cũng là vị vua đặt nhiều niên hiệu nhất. Ý nghĩa và các niên hiệu đó gồm có:
1. Thái Ninh (1072-1076) nghĩa là thiên hạ được an ninh cực lạc.
2. Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084) nghĩa là vũ lực hùng mạnh đem lại chiến thắng rực rỡ.
3. Quảng Hựu (1085-1092) nghĩa là sự phù hộ lan tỏa rộng khắp.
4. Hội Phong (1092-1100) nghĩa là sự hội tụ phong phú.
5. Long Phù (1101-1109) nghĩa là điềm rồng xuất hiện báo hiệu sự phù trợ tốt đẹp.
6. Hội Tường Ðại Khánh (1110-1119) nghĩa là hội tụ các điều tốt lành lớn.
7. Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126) nghĩa là Trời phù giúp để có võ công rực rỡ.
8. Thiên Phù Khánh Thọ (1127) nghĩa là Trời phù hộ của vua được hưởng thọ.
Thông thường các vị vua đặt niên hiệu chỉ gồm 2 chữ, nhưng một số vua thời Lý – Trần đặt niên hiệu dài đến 4 chữ, và Lý Nhân Tông là vị vua có nhiều niên hiệu dài nhất, trong số 8 niên hiệu của ông thì có đến 5 niên hiệu gồm 4 chữ, đó là: Anh Vũ Chiêu Thắng, Long Phù Nguyên Hóa, Hội Tường Đại Khánh, Thiên Phù Duệ Vũ, Thiên Phù Khánh Thọ.
Coi trọng việc học, thiên hạ thịnh trị
Triều đại Lý Nhân Tông chứng kiến sự phát triển của nền giáo dục khoa bảng Đại Việt. Mùa xuân năm 1075, ông đã cho tổ chức kỳ thi khoa bảng đầu tiên, khoa thi “Tam trường” để chọn người có tài ra giúp nước. Triều đình chấm đỗ 10 người, trạng nguyên khoa bảng đầu tiên của Đại Việt chính là Trạng nguyên Lê Văn Thịnh (Bắc Ninh).
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho xây dựng Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu để thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền của Nho giáo và là nơi dạy học ở bậc cao giành cho thái tử và những người tài giỏi của đất nước. Đây được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Cùng năm đó, ông ban chiếu “cầu lời nói thẳng” với mong muốn nhận được những lời can gián thẳng thắn của quần thần và dân chúng.
Cùng với việc phát triển Nho học và giáo dục, nhà vua và mẹ (Thái hậu Linh Nhân) cho xây nhiều chùa chiền và khuyến khích việc hành đạo của các thiền sư. Vì thế trong giai đoạn này, Phật pháp được truyền đi khắp nơi. Vua dùng Phật pháp để giáo hóa dân chúng, khiến giang sơn thái bình, xã tắc ổn định.
Không chỉ coi trọng giáo hóa dân chúng, Lý Nhân Tông rất quan tâm đến nông nghiệp – thủy lợi. Vị vua này có nhiều sáng kiến xây dựng những công trình kinh tế xã hội mang tính khai phá, đặc biệt là đối với nông nghiệp và nông thôn nước Đại Việt đương thời. Ông được xem là người khởi công đắp những con đê lớn đầu tiên của Đại Việt. Tháng 9 âm lịch năm 1077, triều đình sai đắp đê trên sông Như Nguyệt, sách Đại Việt sử lược mô tả đê này “dài 67.380 bộ”.
Đại Việt sử lược cũng chép rằng năm 1103, nhà vua ra lệnh cho cư dân Thăng Long làm đê chống lũ, ở cả nội đô lẫn ngoại ô. Mùa xuân năm 1108, Nhân Tông sai đắp đê tại Cơ Xá – đây là đoạn đê sông Hồng gần cầu Long Biên ngày nay.
Ngoài ra, nếu việc “cầy tịch điền” và “đi xem gặt” đã là việc được nhiều đời vua trước thực hiện, thì Lý Nhân Tông là người đã nâng cấp nghi thức cổ vũ nông nghiệp này thành lệ thường, thậm chí một năm hai vụ chiêm mùa gặt hái đều có mặt vua ở những vùng ruộng đồng trọng điểm, và thậm chí có mặt cho đến lúc sắp lìa đời.
Năm 1117, Nhân Tông theo lời Thái hậu, ra quy định cấm giết trâu bò bừa bãi. Ai mổ trộm trâu bị phạt 80 trượng và bị tội phải làm người hầu trong quân đội; người giết trâu và ăn trộm trâu đều phải bồi thường; hàng xóm biết mà không tố cáo cũng bị phạt 80 trượng.
Bấy giờ đất nước thường được mùa, hoặc trúng mùa lớn. Nếu khi hạn hán mất mùa thường mở kho lương phán chẩn, giảm tô dịch, đất nước nhanh chóng cường thịnh. Nhân Tông rất thường hay xem bắt voi, lễ hội ở khắp nơi để tỏ rõ sự cường thịnh của Đại Việt lúc đó.
Vị vua mang lại nhiều điềm lành
Triều đại Lý Nhân Tông cũng là triều đại có nhiều điềm lành được ghi vào sử sách nhất. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ Lý Nhân Tông chỉ có 20 trang mà có tới 23 lần ghi chép các việc thần dân, quan lại dâng vua những cỏ cây, chim thú có hình kỳ lạ. Trong 23 lần ấy thì có 4 lần ghi việc rồng vàng hiện, 3 lần có móc ngọt (mưa ngọt) và có tới 5 lần nhắc tới những con rùa mắt có 6 con ngươi, hoặc rùa 3 chân, hoặc rùa ngũ sắc.
Thậm chí có khi chỉ một cây ưu bát đàm (cây sung) có hoa hoặc cây cau một gốc có 9, 10 thân cây cũng được ghi chép vào quốc sử. Ở thời đó, đây là các sự lạ và thường coi là điềm lành.
Có thể nói trong thời gian trị vì của mình, Lý Nhân Tông đã thực hiện nhiều chính sách tích cực, đưa Đại Việt trở nên cường thịnh, đời sống nhân dân ấm no, xã hội ổn định. Trong Việt giám thông khảo tổng luận, sử thần Lê Tung cũng ca ngợi Lý Nhân Tông là người “nhân hiếu, có tiếng đức tốt, trọng kén chọn danh thần, đặt khoa thi Tiến sĩ, có quan hầu Kinh Diên, xuống chiếu mở đường nói, cầu người hiền, nghe lời can, nhẹ thuế khóa, ít lao dịch cho nên thân được hưởng thái bình, dân trở nên giàu thịnh, đáng gọi là bậc vua giỏi nối đời thái bình vậy”.
Tham khảo:
- Lý Nhân Tông – vị vua giỏi của triều Lý - Báo Người Hà Nội (26/10/2023)
- Lý Nhân Tông - ông vua có nhiều kỷ lục - Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (09/07/2010)
Vì sao các vị vua nhà Nguyễn không lập Hoàng hậu?
Bí ẩn chuyện lạ xoay quanh án oan của Thái tử Lê Duy Vĩ, là cha vị vua cuối cùng nhà Hậu Lê