Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tỉ lệ đột quỵ cao nhất.
Theo PGS, TS, BS Nguyễn Huy Thắng, Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, Trưởng Khoa Bệnh lý mạch máu não tại Bệnh viện Nhân dân 115 (TP. HCM), nước ta nằm trong nhóm quốc gia có nguy cơ đột quỵ cao nhất thế giới, với tỉ lệ ước tính vượt quá 218/100.000 dân. Với dân số gần 100 triệu, mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng hơn 200.000 ca đột quỵ. Tuy nhiên, số lượng đơn vị chuyên khoa đột quỵ lại quá ít, đến mức "rất báo động".
Theo BS Thắng, đơn vị đột quỵ đầu tiên ở Việt Nam đã được thành lập vào năm 2005, tại Bệnh viện Nhân dân 115 (TP. HCM). Hiện nay, trên toàn quốc đã có 110 đơn vị hoặc trung tâm đột quỵ. Tuy nhiên, phần lớn các đơn vị này tập trung ở TP. HCM và Hà Nội. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh nhân từ các tỉnh phải mất vài giờ để tiếp cận được trung tâm đột quỵ gần nhất.
Đột quỵ và nhồi máu cơ tim là hai biến chứng phổ biến nhất của tăng huyết áp. Một trong những lý do quan trọng nhất khiến Việt Nam dẫn đầu toàn cầu về tỉ lệ đột quỵ là do phần lớn các trường hợp bệnh này có thể được phòng ngừa thông qua việc kiểm soát hiệu quả các yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, việc tuân thủ điều trị dự phòng ở người Việt vẫn còn hạn chế. Các nhóm nguy cơ mắc đột quỵ bao gồm người tăng huyết áp, tăng cholesterol, tiểu đường, nhồi máu cơ tim, nhưng điều "đáng báo động" là họ chưa thực sự kiểm soát tốt tình trạng bệnh lý của mình.
Nguy hiểm đến từ việc những bệnh nền như vậy tiến triển một cách thầm lặng, với các triệu chứng mơ hồ, khiến đa số bệnh nhân cảm thấy khỏe mạnh và có thể trở nên chủ quan, không tuân thủ đúng cách liệu pháp. Tuy nhiên, các loại bệnh này thường đòi hỏi việc sử dụng thuốc kiểm soát kéo dài, thậm chí là suốt đời.
Nhiều người sử dụng thuốc một thời gian và cảm thấy huyết áp, đường huyết, mỡ máu ổn định nên tự ý ngừng sử dụng thuốc. Cũng có không ít trường hợp tự mua thuốc theo đơn của bác sĩ mà không tái khám định kỳ để điều chỉnh liều lượng thuốc phù hợp. Thậm chí, có người chỉ chọn uống vài loại thuốc từ đơn thuốc của bác sĩ, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.
Một nguyên nhân khác là nhận thức của nhiều người Việt về nguy cơ đột quỵ vẫn còn thấp. Theo các bác sĩ, đa số bệnh nhân đột quỵ cho biết họ không nhận ra nguyên nhân do không kiểm soát được các bệnh nền, theo đánh giá của các bác sĩ. Họ không tuân thủ điều trị bằng cách sử dụng thuốc, không đo huyết áp hàng ngày tại nhà, không hiểu rõ về mức huyết áp cần đạt được, vẫn tiếp tục hút thuốc lá và tiêu thụ thực phẩm không tốt.
Thêm vào đó, một yếu tố khác đóng góp vào việc tăng tỉ lệ mắc đột quỵ là tầm soát vẫn chưa đạt hiệu quả trên phạm vi toàn quốc. Nhiều người vẫn chưa hiểu rõ việc tầm soát và phòng ngừa đột quỵ chính là việc nhận biết và kiểm soát các yếu tố nguy cơ cao của đột quỵ. Có những người cho rằng việc thực hiện các xét nghiệm như cộng hưởng từ hạch, cắt lớp vi tính não đầu không thể phát hiện được nguy cơ đột quỵ.
Việc phòng ngừa đột quỵ phụ thuộc rất nhiều vào ý thức cộng đồng, không chỉ trong việc tuân thủ điều trị mà còn ở việc phát hiện sớm các dấu hiệu mới. Các bệnh gây nguy cơ đột quỵ thường không có triệu chứng rõ ràng, nhiều người dân chưa có thói quen kiểm tra sức khỏe định kỳ để phát hiện bệnh từ sớm. Có nhiều trường hợp khi nhập viện vì đột quỵ, mới thực hiện đo huyết áp và nhận ra rằng họ đã mắc bệnh tăng huyết áp từ lâu mà không hề hay biết.
Các chuyên gia cũng lo ngại về thói quen ăn mặn của người Việt. Nhiều người có thói quen sử dụng nước mắm chấm cùng với bữa ăn, thậm chí là ăn thức ăn ngọt như dưa hấu, trái cây vẫn chấm thêm muối, hoặc uống nước dừa cũng thêm một chút muối,... Thực phẩm chế biến sẵn và đồ ăn nhanh chứa nhiều muối và natri, cũng đang trở nên phổ biến hơn tại Việt Nam.
Chuyên gia nhấn mạnh rằng việc tìm ra giải pháp để giảm tỉ lệ mắc đột quỵ đang là một thách thức đối với Việt Nam. Điều quan trọng nhất là cần tăng cường hiểu biết để mọi người có ý thức phòng ngừa đột quỵ.
Các bác sĩ khuyến cáo người dân nên kiểm tra sức khỏe định kỳ. Nếu phát hiện các yếu tố gây nguy cơ đột quỵ như tăng huyết áp, đái tháo đường, rung nhĩ,... cần sử dụng thuốc kiểm soát trong thời gian dài. Không nên tự ý ngừng sử dụng thuốc khi cảm thấy sức khỏe ổn định hoặc tự mua thuốc theo đơn cũ. Đồng thời, cần tránh các yếu tố gây nguy cơ đột quỵ bằng cách cai nghiện hút thuốc lá, hạn chế tiêu thụ bia rượu, kiểm soát cân nặng, duy trì chế độ dinh dưỡng hợp lý và tập thể dục đều đặn.