Các nền kinh tế Đông Nam Á không còn phụ thuộc nhiều vào các quyết định của Fed
Sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã giúp các Ngân hàng Trung ương (NHTW) khu vực tự chủ hơn trong việc cắt giảm lãi suất dựa trên tình hình trong nước của họ.
Bài viết thể hiện quan điểm của ông Enrico Tanuwidjaja, chuyên gia kinh tế ASEAN tại Ngân hàng UOB (Singapore).
Những người theo dõi thị trường trên toàn thế giới luôn theo dõi sát sao kết quả cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Gần hơn, các NHTW khu vực ASEAN cũng đang chuẩn bị cho các cuộc họp quan trọng. Ví dụ, Ngân hàng Thái Lan (BOT) có cuộc họp về chính sách lãi suất vào ngày 12/6, trước 1 ngày so với cuộc họp của Fed.
Kỳ vọng về các quyết định của Fed và BOT khá đối lập. Trong khi những người theo dõi thị trường thường kỳ vọng Fed sẽ giữ quan điểm về mức lãi suất cao của mình, thì có nguồn tin trên thị trường rằng Thái Lan có thể sẽ tuyên bố cắt giảm lãi suất. Ở những nơi khác trên thế giới, Ngân hàng Trung ương Châu Âu vào ngày 6/6 đã bắt đầu cắt giảm lãi suất từ mức cao kỷ lục, 0,25 điểm phần trăm.
Singapore có chính sách tiền tệ độc đáo nhờ cách tiếp cận theo hướng tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, ít nhất, sự khác biệt như vậy giữa Fed và phần còn lại của Đông Nam Á dường như khó xảy ra hoặc thậm chí là không thể xảy ra.
Nếu nhìn ở khoảng thời gian xa hơn, sự khác biệt như vậy dường như khó xảy ra hoặc thậm chí là không thể xảy ra trong những năm trước. Suy cho cùng, các nền kinh tế trong khu vực bao gồm Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines đã phải gánh chịu nặng nề do dòng vốn chảy ra ngoài trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào cuối những năm 1990, với những cuộc suy thoái trên diện rộng, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt và đồng tiền mất giá khi các nhà đầu tư rút tiền ra.
Ông Enrico Tanuwidjaja, chuyên gia kinh tế UOB |
Kể từ đó, lãi suất trong khu vực nhìn chung vẫn cao hơn lãi suất ở các thị trường phát triển, đặc biệt là Mỹ. Các loại tiền tệ của Đông Nam Á nhìn chung không thể mang lại sự an toàn và ổn định như đồng bạc xanh mang lại, do đó cần phải mang lại cho các nhà đầu tư mức lợi nhuận cao hơn đáng kể.
Tuy nhiên, mọi thứ đã thay đổi trong những năm gần đây. Khi lạm phát hậu COVID-19 bắt đầu ảnh hưởng nặng nề vào cuối năm 2021, các NHTW Đông Nam Á đã theo chân Fed trong việc tăng lãi suất. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt lớn là mức độ thắt chặt tiền tệ thấp hơn nhiều. Với áp lực lạm phát ở Đông Nam Á ít nghiêm trọng hơn so với các nền kinh tế phát triển như Mỹ và Châu Âu, các NHTW khu vực đã có thể kìm hãm áp lực giá cả bằng cách tăng lãi suất thấp hơn.
Fed đã tăng lãi suất cơ bản lên hơn 5 điểm phần trăm để đạt mức cao nhất 5,5% vào tháng 7 năm 2023 và giữ nguyên lãi suất kể từ đó. Ngược lại, lãi suất của BOT chỉ ở mức 2,5% - tăng 2 điểm phần trăm trong chu kỳ thắt chặt này - trong khi lãi suất cao nhất của Ngân hàng Negara Malaysia ở mức 3%, tăng 1,25 điểm phần trăm. Về phần mình, lãi suất chính thức của Ngân hàng Indonesia là 6,25%, đánh dấu mức tăng 2,75 điểm phần trăm.
Mức tăng lãi suất lớn nhất ở Đông Nam Á là ở Philippines với mức tăng 4,5 điểm phần trăm lên mức lãi suất chính sách là 6,5%. Tuy nhiên, mức tăng này thấp hơn mức tăng lãi suất của Fed.
Indonesia, Thái Lan, Philippines và Malaysia hiện có mức độ độc lập về chính sách tiền tệ cao hơn vì cán cân bên ngoài của họ - bao gồm vị thế tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - mạnh hơn nhiều và có khả năng phục hồi tốt hơn so với các giai đoạn trước. Bốn quốc gia này đã thâm hụt tài khoản vãng lai từ 3,4% đến 7,9% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 1996, năm ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Ngày nay, các số dư tài khoản vãng lai này mạnh hơn nhiều.
Ví dụ, Indonesia thậm chí còn đạt thặng dư tài khoản vãng lai lên tới 1% GDP vào năm 2022 - và ghi nhận mức thâm hụt nhỏ chỉ 0,1% GDP vào năm ngoái - trong bối cảnh xuất khẩu các mặt hàng chủ chốt bùng nổ. Thái Lan cũng trở lại vị thế thặng dư 1,4% GDP vào năm 2023, sau khi thâm hụt trong hai năm liên tiếp kể từ năm 2020.
Malaysia đã đạt thặng dư tài khoản vãng lai ổn định ngay cả trước khi xảy ra đại dịch. Thặng dư đã giảm từ 3,1% GDP vào năm 2022 xuống còn 1,2% vào năm ngoái, nhưng UOB dự kiến sẽ tăng lên 2% trong năm nay.
Trong khi đó, sau COVID-19, thâm hụt tài khoản vãng lai của Philippines đã thu hẹp đáng kể từ 4,4% GDP vào năm 2022 xuống chỉ còn 1,3% vào năm ngoái.
Lãi suất trong khu vực nhìn chung vẫn cao hơn lãi suất ở các thị trường phát triển, đặc biệt là Mỹ |
Những cải thiện này xuất hiện do những thay đổi lớn về mặt cấu trúc trong mỗi nền kinh tế. Điều này bao gồm các nỗ lực để nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh, cải thiện việc giám sát trong lĩnh vực tài chính và tạo dựng một thị trường vốn minh bạch và thanh khoản hơn. Những thay đổi này vẫn đang tiếp tục. Indonesia gần đây đã bắt tay vào nhiều nỗ lực hạ nguồn hơn để thúc đẩy xuất khẩu giá trị gia tăng trong khi Thái Lan đã nới lỏng các hạn chế về thị thực để thúc đẩy lượng khách du lịch đến, từ đó sẽ tăng xuất khẩu dịch vụ của nước này.
Khi thế giới bước vào chu kỳ nới lỏng tiền tệ, các nền kinh tế Đông Nam Á có thể nới lỏng sớm hơn hoặc nhiều hơn. Với sự ổn định tài chính được cải thiện, các nền kinh tế này hiện có nhiều sự linh hoạt hơn để điều chỉnh lãi suất ở mức tối ưu để cân bằng mục tiêu tăng trưởng và lạm phát ở từng quốc gia tương ứng. Họ không còn cần phải theo dõi chặt chẽ các động thái của Fed nữa.
Hiện tại, NHTW Philippines có vẻ khá trung lập hoặc thậm chí là ôn hòa dựa trên tuyên bố quyết định chính sách tiền tệ mới nhất của mình. Việc cắt giảm lãi suất có thể sắp diễn ra và đồng tiền của nước này, đồng peso Philippines, là một trong những đồng tiền có khả năng phục hồi tốt hơn so với đồng USD. Quốc gia này có thể linh hoạt cắt giảm trước Fed mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định của đồng tiền, để hỗ trợ đà tăng trưởng đang yếu đi của mình.
Mặc dù có những lo ngại về nợ hộ gia đình ở Thái Lan, nhưng vị thế bên ngoài mạnh mẽ và lạm phát thấp của nước này có nghĩa là nước này cũng có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy đà tăng trưởng.
Malaysia đã chứng kiến tăng trưởng xuất khẩu của mình chậm lại, nhưng sức mạnh của nhu cầu trong nước có nghĩa là nước này có thể đủ khả năng duy trì lập trường chính sách tiền tệ của mình không thay đổi trong thời điểm hiện tại.
Indonesia có thể sẽ là quốc gia thận trọng nhất trong việc cắt giảm lãi suất do nguy cơ lạm phát nhập khẩu leo thang. Ngoài ra, trong khi vị thế bên ngoài của đất nước đã được cải thiện đáng kể trong những năm qua, Ngân hàng Indonesia có thể sẽ thận trọng trong việc giữ lãi suất ở mức cao để thu hút dòng vốn quay trở lại trong nước.
Singapore, mặc dù vận hành không thông qua cơ chế lãi suất trực tiếp mà thông qua chính sách tỷ giá hối đoái, cũng có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, khi đà tăng trưởng đang chậm lại.
Bất kể mỗi NHTW làm gì, giờ đây họ có nhiều quyền tự do hơn trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ so với trước đây. Ảnh hưởng của Fed với tư cách là cơ quan ấn định lãi suất trên thực tế đang suy yếu, ít nhất là ở khu vực này của thế giới.