Cú sốc Trung Quốc 2.0: Cơn lũ hàng giá rẻ ‘nhấn chìm’ các nhà máy châu Á, chuyện gì xảy ra?
Năng lực sản xuất khổng lồ buộc Bắc Kinh phải đẩy hàng hóa ra khắp châu Á và các thị trường mới nổi, khi cánh cửa vào Mỹ bị siết chặt bởi thuế quan. Điều này có thể gây ra những chấn động lâu dài cho ngành sản xuất trong khu vực.
Hàng giá rẻ tràn sang châu Á
Trong giai đoạn hoàng kim của chuỗi cung ứng toàn cầu, lợi ích từ việc duy trì quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc hầu như không bị đặt dấu hỏi. Theo giới chuyên gia, việc ở gần Bắc Kinh thậm chí còn được coi là “tấm vé” đi đến thịnh vượng.
Quan niệm đó giờ đây đang bị soi xét lại. Thời kỳ bùng nổ tăng trưởng của châu Á đã qua, và việc nằm trong quỹ đạo kinh tế của Trung Quốc ngày càng trở thành con dao hai lưỡi.
Trong khi xuất khẩu của Trung Quốc vấp phải rào cản cứng rắn từ Mỹ, các nhà máy nước này lại đẩy lượng lớn hàng giá rẻ sang phần còn lại của châu Á. Người tiêu dùng có thể hưởng lợi, nhưng các nhà sản xuất trong khu vực ngày càng cảm thấy “khó thở”.
Lạm phát được kiềm chế là tín hiệu tích cực, song nguy cơ kéo giá xuống quá thấp cũng hiện hữu. Ở nhiều nền kinh tế, lạm phát đang dưới mục tiêu và nếu tiếp tục đi xuống, hệ quả sẽ khó lường.

Tuy vậy, giới quan sát cho rằng việc lên tiếng với Washington bao giờ cũng dễ hơn so với chỉ trích công khai một cường quốc láng giềng như Bắc Kinh.
Hơn nữa, Trung Quốc ngày càng thể hiện vai trò lớn hơn với tư cách nhà đầu tư. Các lãnh đạo châu Á thường xuyên nhấn mạnh rằng họ không muốn phải chọn phe giữa hai siêu cường kinh tế.
Cựu Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad từng nói: “Dù thích hay không, Trung Quốc vẫn ở đó và chắc chắn sẽ đóng vai trò lớn hơn trong các vấn đề toàn cầu. Vậy nên chúng ta phải học cách chung sống với họ… chúng ta là quốc gia nhỏ yếu, còn Trung Quốc là một cường quốc hùng mạnh”.
Trong khi đó, các mức thuế của Mỹ gần như bị chỉ trích trên toàn thế giới. Đông Nam Á đã phát triển nhanh chóng nhờ tự do hóa thương mại từ những năm 1980 - 1990. Ngay cả các chính sách bảo hộ dưới thời Tổng thống Donald Trump cũng từng được một số doanh nghiệp tận dụng để phân tán rủi ro bằng cách chuyển dây chuyền lắp ráp sang Việt Nam hoặc Thái Lan.
Cú sốc Trung Quốc mới
Nhưng cú “đòn kép” hiện nay khiến bài toán phức tạp hơn. Washington đang siết chặt kiểm soát hàng quá cảnh qua các nước như Việt Nam, áp thuế nặng hơn với những sản phẩm chỉ qua khâu gia công tối thiểu trước khi xuất sang Mỹ.
Cùng lúc, hàng loạt sản phẩm vốn nhắm tới thị trường Mỹ buộc phải tìm đầu ra khác. Thặng dư thương mại của Trung Quốc năm nay dự kiến vượt 1,2 nghìn tỷ USD, riêng 8 tháng đầu đã đạt 785 tỷ USD. Khi thị trường Mỹ nguội lạnh, hàng hóa Trung Quốc đang chảy mạnh sang ASEAN, Liên minh châu Âu và cả châu Phi.
Nếu xu hướng này kéo dài, tác động sẽ rất lớn. Ngay trước khi ông Trump nâng mạnh thuế nhập khẩu hồi tháng 4, các nhà sản xuất trong khu vực đã chịu sức ép nặng nề.

Ngành dệt may Indonesia đặc biệt khó khăn, với tình trạng sa thải lao động và phá sản lan rộng, khiến công nhân quy trách nhiệm cho sự cạnh tranh từ Trung Quốc. Tổng thống Prabowo Subianto đã phải can thiệp để cứu một số doanh nghiệp lớn, cho thấy vấn đề nằm trong tầm ngắm chính trị.
Điều này gợi nhớ “cú sốc Trung Quốc” mà các ngành công nghiệp Mỹ hứng chịu sau khi Bắc Kinh gia nhập WTO năm 2001. Gordon Hanson, giáo sư tại Trường Chính sách công Kennedy (Harvard), nhận xét: “Đây có thể coi là ‘Cú sốc Trung Quốc 2.0 hay 3.0’. Năng lực sản xuất khổng lồ của Trung Quốc buộc hàng hóa phải tìm được đầu ra ở đâu đó”.
Thừa công suất, cạnh tranh khốc liệt trong nước và lợi nhuận suy giảm đang bào mòn doanh nghiệp Trung Quốc. Trong khi đó, chính quyền lại chật vật đối phó nguy cơ giảm phát.
Giải pháp thường được nhắc tới là tăng cường liên kết nội khối châu Á, lấy EU làm hình mẫu. Nhưng thành công của EU đến từ việc chia sẻ chủ quyền trong những vấn đề nhạy cảm như tỷ giá, chính sách tiền tệ hay cạnh tranh. Còn ở Đông Nam Á, nguyên tắc bất thành văn là không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Từ công nhân dệt may ở Java cho tới lao động ngành may mặc tại North Carolina (Mỹ), nhiều người đều có cảm nhận chung rằng họ đang chịu sức ép trực tiếp từ làn sóng hàng hóa Trung Quốc.
Theo The Economist