Theo Oilprice, trong ngắn hạn, khí tự nhiên LNG của Mỹ không thể lấp đầy khoảng trống do nguồn cung từ Nga sụt giảm.
Khí đốt tự nhiên hóa lỏng từ Hoa Kỳ đã trở thành một dây cứu sinh cho châu Âu đang gặp khó khăn khi Nga cắt nguồn cung cấp thông qua một trong những đường ống dẫn khí đốt lớn nhất vào lục địa này. LNG của Mỹ sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong nguồn cung cấp khí đốt của châu Âu. Nhưng sẽ không đủ để tránh một đợt siết chặt lớn trong ba năm tới.
Một nghiên cứu gần đây của Rystad Energy và được tài trợ bởi Viện Dầu khí Hoa Kỳ và Hiệp hội Sản xuất Dầu khí Quốc tế cho thấy, các nhà sản xuất Hoa Kỳ sẽ vẫn là nhà cung cấp LNG lớn nhất cho các nước châu Âu trong dài hạn. Nhưng trước khi thị trường tái cân bằng, sẽ có sự chênh lệch về nguồn cung, kéo dài cho đến khoảng giữa năm 2023 và năm 2025.
Điều này sẽ được thúc đẩy bởi sự cắt giảm của tất cả các nguồn cung cấp khí đốt của Nga. Đây là điều mà các nước châu Âu đã tuyên bố rằng họ sẽ hướng tới và sự tăng trưởng trong khả năng xuất khẩu LNG của Mỹ. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu của Qatar cũng sẽ tăng lên.
Mặc dù có nhiều lựa chọn không phải của Nga để có thêm đường ống dẫn khí đốt, chẳng hạn như Na Uy, Azerbaijan và Algeria, nghiên cứu của Rystad giả định rằng LNG sẽ trở thành nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên chính cho châu Âu, sẽ đáp ứng một nửa nhu cầu vào năm 2030.
Trong 10 năm tới, LNG được coi là bao phủ tới 75% nhu cầu ở châu Âu, mở rộng 150% từ năm 2021. Điều mà báo cáo dường như không đề cập đến là chi phí liên quan đến sự phụ thuộc ngày càng tăng vào khí đốt hóa lỏng và ảnh hưởng của chúng đến khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp châu Âu.
Hiện tại, hóa đơn nhập khẩu khí đốt của Liên minh châu Âu đã tăng gấp 10 lần so với thông thường để lấp đầy các kho chứa vào mùa đông do việc chuyển sang sử dụng LNG từ khí đốt đường ống. Điều đáng chú ý là tất cả LNG được mua trên thị trường giao ngay và Brussels đã là một "fan hâm mộ" của thị trường giao ngay trong nhiều năm.
Thủ tướng Đức Olaf Scholz tuần trước đã đi công tác ở ba quốc gia vùng Vịnh để tìm kiếm các hợp đồng hydrocarbon, tập trung vào LNG, và kết quả duy nhất từ chuyến công du là một thỏa thuận với Emirati Adnoc về việc cung cấp lượng khí LNG với 137.000 mét khối và cam kết không ràng buộc đối với năm lô hàng nữa.
Trong khi đó, các nhà sản xuất Hoa Kỳ dường như rất hứng thú khi bán khí đốt hóa lỏng của họ trên thị trường giao ngay, nơi mà họ có thể đạt được mức giá mà chưa từng có. Các phương tiện truyền thông thậm chí đã đưa tin về các trường hợp chuyển hướng hàng hóa LNG từ châu Á sang châu Âu vì châu Âu sẵn sàng trả một khoản phí bảo hiểm để có được loại khí đốt này.
Trong khi năm nay, hành vi như vậy là hoàn toàn dễ hiểu khi các nước châu Âu tranh nhau tích trữ khí đốt cho mùa đông, về lâu dài, nó sẽ không chính xác có ý nghĩa kinh tế.
Năm nay, hoạt động chuyển sang khí LNG được coi là trào lưu khi các nước châu Âu đang tranh nhau tích trữ khí đốt cho mùa đông. Tuy nhiên, về lâu dài, điều này không còn có ý nghĩa là kinh tế.
Các ngành công nghiệp châu Âu đang phải vật lộn để duy trì lợi nhuận trong bối cảnh hóa đơn năng lượng tăng vọt. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ quá bận rộn chiến đấu để tồn tại mà không bận tâm đến lợi nhuận, điều này sẽ gióng lên hồi chuông cảnh báo cho các Chính phủ và thúc đẩy sự đa dạng hóa toàn diện hơn trong việc cung cấp khí đốt.
Dự trên nghiên cứu của Rystad, về cơ bản, châu Âu đang hướng đến nhà cung cấp khí đốt Hoa kỳ thay thế cho Nga.
Khí LNG của Qatar và LNG từ châu Phi cũng là một lựa chọn, nhưng trừ khi người châu Âu đồng ý với các cam kết dài hạn, có vẻ như khí LNG Qatar với số lượng đủ sẽ vẫn là một giấc mơ với EU. Mặt khác, các dự án của châu Phi vẫn chưa được phát triển đầy đủ, như trong trường hợp của Nigeria, các vấn đề an ninh cần được giải quyết.
Mặc dù tất cả những điều này chắc chắn là tin tốt cho các nhà sản xuất khí đốt của Mỹ, nhưng cũng có một số vấn đề khó khăn với họ. Không có đủ công suất đường ống để vận chuyển khí từ các lò đá phiến đến các đoàn tàu hóa lỏng trên Bờ Vịnh và việc cấp phép cho công suất LNG mới là một quá trình phức tạp và kéo dài.
Trước những thách thức này, các công ty khí đốt của Hoa Kỳ đang phải vật lộn để đáp ứng nhu cầu cả trong nước và quốc tế. Mặc dù quốc gia này có trữ lượng khí đốt khổng lồ, nhưng sản xuất lại là một vấn đề khó khăn do gia tăng sản xuất điện từ khí đốt trong nước.
Điều này hỗ trợ dự báo của Rystad về nguồn cung cấp khí đốt ở châu Âu trong ba năm tới. Khoảng chênh lệch ước tính là 19% trong năm tới nếu mỏ khí Groningen ở Hà Lan ngừng hoạt động và 12% nếu nó tiếp tục bơm. Đối với năm 2024, khoảng cách được nhìn thấy là 16% khi không có Groningen và 10% nếu có Groningen. Cuối cùng, vào năm 2025, khoảng cách sẽ bắt đầu giảm xuống còn 14% nếu không có Groningen.
EU cam kết bảo vệ mạng lưới năng lượng sau khi đường ống dẫn khí đốt của Nga bị "phá hoại"