TỔNG THUẬT Tọa đàm: Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp
Chiều 21/8, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm "Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp" nhằm phân tích, luận bàn, đánh giá những vấn đề nổi bật liên quan đến thúc đẩy phát triển, quản lý công nghiệp công nghệ số; nội hàm, bản chất của tài sản số; nghĩa vụ thuế liên quan đến tài sản số cùng nhiều nội dung được nêu ra trong dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sự phát triển và bùng nổ như vũ bão của công nghệ số nói chung và công nghiệp công nghệ số nói riêng là xu hướng tất yếu toàn cầu. Công nghiệp công nghệ số ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí là nền tảng, là hạ tầng thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển cũng như đóng vai trò dẫn dắt trong thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, quốc gia số.
Bám sát các định hướng lớn, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cũng như nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp công nghệ số, thời gian qua Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã dành sự quan tâm đặc biệt, sự chỉ đạo hết sức sát sao, quyết liệt trong thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ số trên các lĩnh vực cũng như không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách về công nghiệp công nghệ số.
Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông được giao là đơn vị chủ trì xây dựng và đang lấy ý kiến góp ý rộng rãi các cấp, các ngành đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số để trình Quốc hội xem xét và thông qua vào kỳ họp sắp tới.
Dự thảo luật này có nhiều điểm nổi bật về quản lý, hành lang pháp lý, phát triển công nghệ số, trong đó tài sản số lần đầu tiên được định nghĩa tại Điều 8 của dự thảo luật. Theo đó, dự thảo luật khẳng định: "Tài sản số là sản phẩm công nghệ số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối mà con người có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật có liên quan".
Quy định của luật về tài sản số dự kiến được ban hành cũng đặt ra các yêu cầu quan trọng trong việc hoàn thiện các hành lang pháp lý đầy đủ đi cùng với các quy định về quyền sở hữu, nghĩa vụ thuế của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành.
Liên quan đến dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số đang được lấy ý kiến, những vấn đề nổi bật gì cần được pháp điển hóa, quy định rõ để thúc đẩy phát triển, quản lý công nghiệp công nghệ số; nội hàm, bản chất của tài sản số - một nội dung quan trọng trong dự thảo luật; các quy định về nghĩa vụ thuế liên quan đến tài sản số, việc xác lập quyền sở hữu sẽ ra sao;… Tất cả những câu hỏi, vấn đề này sẽ được phân tích, mổ xẻ, luận bàn, đánh giá tại Tọa đàm "Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 21/8 với sự tham dự của lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước, chuyên gia, doanh nghiệp…
Các vị khách mời tham dự Tọa đàm gồm:
- Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí Trương Bá Tuấn (Bộ Tài chính)
- Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI Đậu Anh Tuấn
- Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung
- CEO Công ty Alpha True Trần Huyền Dinh
Trước hết, xin ông Phan Đức Trung cho biết tình hình chung, vài nét phác hoạ bức tranh về tài sản số hiện nay tại Việt Nam?
Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung: Trước tiên, về tài sản số tại Việt Nam hiện nay, sắp tới cũng là xu hướng, như chúng ta biết, Chính phủ dự kiến đưa vào khung pháp lý và lần đầu tiên tài sản số được lấy ý kiến dự thảo tại Điều 8. Theo đó, đã định nghĩa rất rõ là dựa trên nền tảng công nghệ chuỗi khối.
Có rất nhiều con số nói về tài sản số tại Việt Nam, điển hình theo báo cáo của một tổ chức chuyên về phân tích thị trường, năm 2022, dòng tài sản số hay là tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD. Con số này tăng trưởng đến năm 2023 là 120 tỷ USD. Năm 2021-2022, Việt Nam luôn nằm trong top 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số (nghĩa là 21% dân số Việt Nam sở hữu) chỉ sau UAE và Hoa Kỳ. Năm 2023 Việt Nam tụt 5 hạng, đứng thứ 7. Đặc biệt, 2 quốc gia nhỏ, sát với chúng ta là Thái Lan và Singapore đã vươn lên đứng thứ 5 và 3.
Ở đây, chúng tôi muốn nói tài sản số không chỉ là những con số mang tính chất quy mô về dòng tiền dịch chuyển về Việt Nam, mà còn có quy mô cạnh tranh khu vực. Rất nhiều quốc gia trong khu vực ban hành luật lệ, chính sách để thúc đẩy tạo ra hành lang pháp lý cho những dòng tài sản này đóng góp vào nền kinh tế mang giá trị tích cực chứ không thể có cách nhìn tiêu cực là ảnh hưởng tới ổn định kinh tế từng quốc gia nói riêng.
Xin được hỏi ông Đậu Anh Tuấn, là người tiếp cận từ rất sớm và cũng là đại diện cơ quan được xin ý kiến đóng góp vào quá trình xây dựng, hoàn thiện dự án luật, ở góc độ xây dựng pháp luật, xin ông chia sẻ về những điểm cốt lõi liên quan đến khái niệm, nội hàm dự thảo quy định về tài sản số, việc xác lập quyền sở hữu về tài sản số? Việc xác lập và yêu cầu phải luật hóa quy định liên quan đến tài sản số có phải là yêu cầu cấp thiết, khách quan trong bối cảnh công nghệ số phát triển như vũ bão hiện nay hay không, thưa ông?
Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI Đậu Anh Tuấn: Như anh Trung vừa nói, một trong những điểm mới và tương đối nổi bật trong dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số có lẽ là: Lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tài sản số. Mặc dù tài sản số hay tiền ảo trên thực tiễn đã rất phát triển nhưng về mặt pháp lý dường như chúng ta chưa theo kịp, chúng ta chưa có một khung khổ pháp lý cho loại tài sản này. Chính vì thế, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số lần đầu tiên tại Điều 8 có quy định về tài sản số. Theo chúng tôi, đây là một điểm nổi bật của dự thảo lần này. Dự thảo dù chỉ đưa ra 1 điều khoản, khoản 1 quy định định nghĩa, khái niệm về tài sản số, khoản 2, 3 có giao cho các bộ, ngành liên quan triển khai việc soạn thảo, hay đưa ra chính sách cụ thể liên quan tới tài sản số này. Về ý nghĩa và sự cần thiết, vì trên thực tế đã phát sinh và tương đối phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới, nên cần một khung khổ chính thức có lẽ là điều cần phải tính đến. Có rất nhiều quốc gia đang trong quá trình này.
Khi có khung khổ chính thức thì hoạt động đầu tư kinh doanh theo lĩnh vực này mới có thể hình thành và phát triển được. Chính vì chúng ta chưa có khung khổ pháp lý chính thức nên thời gian vừa qua, có những hoạt động đầu tư kinh doanh buộc phải rời bỏ Việt Nam, ví dụ như Tập đoàn Sky Mavis, một tập đoàn kỳ lân công nghệ của Việt Nam có hệ sinh thái game, là doanh nghiệp thuần Việt Nam nhưng do chúng ta chưa có khung khổ pháp lý cho tài sản trong game và hoạt động dựa trên cơ sở nội dung số, tài sản số rất lớn, nên cuối cùng họ chọn Singapore làm nơi đóng trụ sở.
Với sự phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ như hiện tại, chúng tôi mong rằng, Việt Nam cần phải là điểm đến của các nhà đầu tư công nghệ số. Cho nên, chúng ta từng bước phải xây dựng khung khổ pháp lý cũng là điều rất quan trọng. Khi có pháp lý, công nghiệp công nghệ số dần được hình thành, phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này được bảo vệ. Đã có rất nhiều giao dịch liên quan tới tài sản số, nếu chúng ta chưa có khung khổ pháp lý thì giao dịch này trở nên rủi ro, mỏng manh, những người liên quan không được bảo vệ. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, nhu cầu có khung khổ pháp lý cho tài sản số, cho các giao dịch liên quan tới tài sản số là điều Việt Nam cần cân nhắc và nhanh chóng thúc đẩy.
Theo Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số có nêu: "Bộ Tài chính chủ trì với các cơ quan ngành ban hành hoặc xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành quy định quản lý tài sản số, tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản số". Nếu dự thảo Luật được Quốc hội thông qua tại kỳ họp tới đây, Bộ Tài chính sẽ có chương trình, kế hoạch như thế nào để triển khai các quy định về tài sản số cũng như cung các dịch vụ về tài sản số và thực hiện các quy định về thuế đối với tài sản số?
Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) Trương Bá Tuấn: Trong thời gian qua, với sự phát triển của công nghệ, tài sản số cũng phát triển rất mạnh trên thế giới.
Chúng ta không có khung pháp lý liên quan đến tài sản số nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân. Vì vậy, chúng ta cần thiết phải có khung pháp lý liên quan đến tài sản số. Trong đó, phải xác định và làm rõ được định nghĩa tài sản số là gì cũng như vị trí pháp lý của tài sản số và những đặc trưng, đặc tính của tài sản số. Như vậy, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan mới có các biện pháp, chính sách để hình thành khung pháp lý đồng bộ.
Tài sản số có thể sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Để quản lý được vấn đề này, chúng ta thừa nhận và quản lý nó như tài sản thì đòi hỏi không chỉ sự tham gia của Bộ Tài chính mà của rất nhiều bộ, ngành có liên quan. Phía Bộ Tài chính, trường hợp dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số được Quốc hội thông qua, trong đó chúng ta đã đưa ra được định nghĩa về tài sản số cũng như các nội dung có liên quan, thì trong phạm vi và chức năng của mình, Bộ Tài chính sẽ triển khai thực hiện các vấn đề liên quan, bao gồm cả hoàn thiện chính sách về thuế.
Xin ông Phan Đức Trung chia sẻ thêm thông tin về tổng quan chính sách thuế ở các nước trên thế giới, hiện nay họ đang áp dụng và kinh nghiệm quốc tế gì? Theo ông, chúng ta có thể áp dụng hay không vì như ông nói đầu chương trình, một số nước ban hành các chính sách để có thể tận dụng nguồn tài sản này, đóng góp cho sự phát triển quốc gia.
Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung: Khi tiếp cận quốc tế, chúng ta chỉ nói đến khái niệm về khung pháp lý, từ tiếng Anh là "legal framework". Tuy nhiên tôi nghĩ cách định nghĩa "legal framework" tốt nhất hiện nay là Hội đồng Đại Tây Dương, họ chia khung pháp lý ra thành 4 tiêu chuẩn đánh giá của từng quốc gia.
Thứ nhất là chính sách thuế, như anh Trương Bá Tuấn và đại diện VCCI đã nói. Thứ hai là các tiêu chuẩn về phòng chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, gọi là ALM và CFT. Thứ ba là chính sách bảo vệ người tiêu dùng và thứ tư là chính sách cấp phép. Đây là xếp hạng của Hội đồng Đại Tây Dương, Hội đồng tham gia vào rất nhiều bảng xếp hạng và đào tạo cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Họ tiến hành khảo sát trên 60 quốc gia năm 2023 thì về cơ bản, có một điều rất đặc biệt, 12 quốc gia chiếm 52% GDP toàn cầu đã có khuôn khổ pháp lý. Khi tiến hành khảo sát họ chia ra khuôn khổ pháp lý đã có, khuôn khổ pháp lý chưa có và khuôn khổ pháp lý đã hoàn thiện. 12 quốc gia chiếm 52% GDP toàn cầu đã có chính sách rất rõ ràng. Nếu chúng ta nhìn những chính sách công nhận tính hợp pháp thì 33 quốc gia đã công nhận hợp pháp, 17 quốc gia có chính sách rõ ràng một phần và 10 quốc gia cấm toàn bộ. Nhưng có yếu tố cách nhìn gây nhầm lẫn. Ví dụ Trung Quốc cấm nhưng không cấm toàn bộ. Trung Quốc cấm các công nghệ blockchain không thuộc Chính phủ Trung Quốc. Trung Quốc lập ra mạng lưới blockchain của Chính phủ Trung Quốc, toàn bộ công nghệ blockchain không thuộc Chính phủ Trung Quốc thì Trung Quốc mở cửa tự do hóa nằm tại Hong Kong. Đây là chính sách cực kỳ đặc thù.
Trong 60 quốc gia Hội đồng Đại Tây Dương khảo sát, có cả Campuchia, Việt Nam. Trong 4 chính sách thuế, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, bảo vệ người tiêu dùng và cấp phép, Thái Lan đạt tất cả màu xanh, chính sách của họ trải dài từ năm 2018. Campuchia, một quốc gia tưởng chừng đi sau chúng ta lại đạt được cấp phép trong vấn đề nhà cung cấp dịch vụ tài sản số, hay là tài sản ảo. Còn Việt Nam rất tiếc là cả 4 mục đều không có.
Ở góc độ Bộ Tài chính, tôi chỉ mong muốn làm thế nào bảo vệ được nguồn thu hoặc tương lai là một dòng thu thuế. Sẽ có mâu thuẫn lợi ích trong chính sách, nghĩa là làm thế nào để bảo vệ được người tiêu dùng, làm thế nào để cân bằng chính sách thu thuế, làm thế nào để thúc đẩy được lợi ích quốc gia trong thu hút dòng vốn vào, làm thế nào để cấp phép được… Có rất nhiều cách nhìn tạo ra sự mâu thuẫn. Một mâu thuẫn mọi người hay gọi là chính sách triệt tiêu, nghĩa là chúng ta khuyến khích không thu thuế hay khuyến khích thu nhiều thuế, lại là đối lập với chính sách bảo vệ người tiêu dùng.
Tuy nhiên với một cách nhìn tổng quát, trong Luật Công nghiệp công nghệ số Bộ Thông tin và Truyền thông dự thảo, trước ở Điều 10, nay Điều 8 khẳng định cốt lõi nền tảng của tài sản số sẽ là công nghệ blockchain. Mặc dù đây là định nghĩa nhưng làm việc với Bộ Thông tin và Truyền thông, chúng tôi đã góp ý rất rõ là chưa bao quát đầy đủ nội hàm. Để ứng dụng tài sản số thì có một số nội hàm:
Thứ nhất là ứng dụng vào tiền số của Ngân hàng Trung ương. Đây là một trong những nội hàm Chính phủ chỉ đạo từ năm 2017, giao cho Ngân hàng Nhà nước. Tiền số trong Ngân hàng Trung ương cũng là tài sản số.
Thứ hai là liên quan đến chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, liên quan đến nội hàm của các giao dịch sàn. Sàn về tổng thể là trách nhiệm của Bộ Tài chính, nhưng trong đó đơn vị nào quản lý sàn, Ủy ban Chứng khoán hay lập ra một tổ chức như Cục Phòng chống rửa tiền của nước ngoài.
Thứ ba là trong hệ thống yêu cầu cấp phép, quản lý, chúng ta phải lưu ý Mục 4 về chính sách cấp phép. Chúng ta phải cấp phép được, hai là cấm thì chúng ta phải bắt được các đối tượng hoạt động không cấp phép ở Việt Nam. Đây là chính sách rất đặc biệt mà Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 194 nêu 17 điểm chương trình hành động để Việt Nam từng bước theo được chính sách thứ hai về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.
Chúng ta đang nhìn đến vấn đề thuế, sẽ có một dòng thuế mới xuất hiện trong tương lai của Việt Nam. Đó là một điều đáng mừng và hy vọng Luật Công nghiệp công nghệ số là nền tảng để chia sẻ từ giá trị tài sản này với Luật khác đã tồn tại như Bộ luật Dân sự.
Thưa ông Trương Bá Tuấn, sau khi lắng nghe những chia sẻ của ông Trung thì ông có ý kiến gì thêm về vấn đề này không ạ?
Ông Trương Bá Tuấn: Nếu nói về pháp luật thuế thì hiện tại trong hệ thống thuế của chúng ta có 9 sắc thuế khác nhau. Mỗi sắc thuế có vai trò, vị trí, chức năng khác nhau. Nếu như trong trường hợp tài sản số được xem như là một loại tài sản theo quy định pháp luật của chúng ta, Bộ luật Dân sự hiện chưa điều chỉnh nội dung này. Tới đây, nếu Luật Công nghiệp công nghệ số đưa vào vấn đề này thì cũng sẽ dẫn đến một số việc. Thứ nhất chúng ta có căn cứ để thực hiện pháp luật về thuế đối với chủ thể khi tham gia kinh doanh, chuyển nhượng tài sản số nếu chúng ta xem đó là một loại tài sản. Thực chất hiện nay hệ thống pháp luật thuế Việt Nam cũng đã có các sắc thuế để điều chỉnh đầy đủ các hoạt động liên quan đến việc giao dịch, chuyển nhượng tài sản này.
Ví dụ Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định nguyên tắc chung là đối tượng, cá nhân cư trú có nghĩa vụ nộp thuế đối với thu nhập phát sinh ở Việt Nam và ngoài Việt Nam. Đồng thời Luật cũng đưa ra khá rõ các khoản thu nhập chịu thuế, trong đó có một khoản là thu nhập từ sản xuất kinh doanh của cá nhân, ngưỡng trên 100 triệu; thu nhập từ chuyển nhượng tài sản. Luật cũng liệt kê các khoản thu nhập thuộc diện được miễn thuế. Như vậy trong trường hợp giao dịch về tài sản số khi mà tài sản số được pháp luật xem là tài sản thì chúng ta cũng có căn cứ để thu thuế dựa trên pháp luật hiện nay.
Tương tự như vậy, chúng ta có Luật Doanh nghiệp. Các tổ chức doanh nghiệp có thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động khác thì có nghĩa vụ nộp thuế.
Như vậy trong trường hợp tài sản số được đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, hay nói cách khác chúng ta thừa nhận tài sản số như một loại tài sản thì chúng ta hoàn toàn có căn cứ để thực hiện thu thuế dựa trên pháp luật thuế của chúng ta. Tương tự chúng ta có Luật Thuế giá trị gia tăng để chúng ta điều tiết, giao dịch các tài sản.
Có lẽ ông Đậu Anh Tuấn cũng muốn chia sẻ một vài quan điểm về vấn đề này.
Ông Đậu Anh Tuấn: Đối với vấn đề mới như tài sản số, trước hết chúng ta phải khẳng định đây là tài sản không bị pháp luật cấm giao dịch, cấm sở hữu hay cấm đề cập đến. Người dân, doanh nghiệp được làm những việc mà pháp luật không cấm. Nhưng sẽ phát sinh một điều, mặc dù có giao dịch, có thu nhập từ giao dịch ấy nhưng chúng ta không thu thuế được. Nên đúng như anh Trương Bá Tuấn có nói, từ nhu cầu thực tế, đã đến lúc chúng ta phải tính chuyện đánh thuế. Vì có những người sở hữu tài sản ấy, có nhiều người thu nhập rất lớn từ tài sản ấy, mà về nguyên tắc một người đang sinh sống ở Việt Nam phải có trách nhiệm đóng thuế phần thu nhập.
Hiện nay có những giao dịch liên quan đến tài sản số. Về nguyên tắc, các giao dịch ấy cũng như các hàng hóa khác phải nộp thuế. Chúng ta có thuế VAT, đối với lĩnh vực này, nếu đây được coi là tài sản thì Nhà nước có thể thu thuế giao dịch, thuế thu nhập. Chúng tôi cho rằng đây cũng là nhu cầu rất chính đáng từ thực tiễn.
Nhưng cái khó không chỉ ở Việt Nam mà các nước đang phải đối mặt là phải định nghĩa nó là gì. Tôi quan sát kinh nghiệm các nước, cách các nước tiếp cận rất đa dạng, khác nhau. Có nước xem đây như một loại chứng khoán, có nước xem đây là một loại tài sản đặc biệt, có nước xem là một tài sản hỗn hợp. Nghĩa là cách tiếp cận của mỗi quốc gia khác nhau. Vậy phản ứng của Việt Nam như thế nào?
Theo chúng tôi, cách tiếp cận của chúng ta hiện tại là phải ghi nhận nó. Còn việc định hình nó, phân loại ra sao… phải từng bước một. Cách tiếp cận của Luật Công nghiệp công nghệ số theo tôi cũng phù hợp. Chúng ta quy định chung một khái niệm, sau đó bằng những văn bản dưới Luật, có thể là Nghị định, có thể là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, bằng nhiều hình thức văn bản tương đối nhanh, linh hoạt để dần dần điều chỉnh. Từ nhu cầu thực tiễn, từ kinh nghiệm của các nước như anh Trung phân tích, khi thực tiễn đã chứng minh rằng đây là một nhu cầu lớn, diễn ra tương đối phổ biến trong thực tiễn thì đã đến lúc chúng ta phải có một khuôn khổ pháp lý và tiến hành hoạt động thu thuế.
Thời gian qua, các doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện như thế nào từ các cơ quan chức năng trong thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh; những thuận lợi, khó khăn, những vướng mắc, nút thắt nào liên quan đến các cơ chế, chính sách cần được tập trung tháo gỡ liên quan đến vấn đề về tài sản số? Ông có sự tin tưởng và kỳ vọng gì trong hoạt động đầu tư, kinh doanh khi nội dung về tài sản số được luật hóa với các quy định cụ thể, minh bạch, rõ ràng?
Ông Trần Huyền Dinh, CEO Công ty AlphaTrue: Trước hết, tôi xin cảm ơn sự quan tâm, hỗ trợ của các cơ quan chức năng đã hỗ trợ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ số. Trong thời gian qua, chúng tôi đã nhận được khá nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, thông qua các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số cũng như phát triển kinh tế số.
Đầu tiên, tôi muốn nhắc đến Quyết định 194/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm giúp Việt Nam loại ra khỏi danh sách xám. Trong quyết định này, lần đầu tiên Chính phủ nhắc đến VASP có nghĩa là tài sản số và những nhà cung cấp dịch vụ tài sản số. Đó là một trong những định nghĩa đầu tiên trong Quyết định 194.
Thứ hai, đó là Dự thảo về Nghị định cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Sandbox cho ngành Fintech tại Việt Nam. Chính những cơ chế này tạo ra một môi trường thử nghiệm khá thuận lợi cho doanh nghiệp của chúng tôi, giúp chúng tôi có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Thứ ba, đó là dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số để trình Quốc hội xem xét và thông qua trong kỳ họp sắp tới. Chúng tôi ghi nhận sự tiến bộ này trong việc xây dựng cũng như hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến công nghệ số. Điều này giúp cho doanh nghiệp có định hướng rõ ràng hơn trong hoạt động đầu tư và kinh doanh.
Về khó khăn, bên cạnh những thuận lợi về chính sách mà Chính phủ đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp thì còn nhiều khó khăn đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực tài sản số.
Hiện nay, hành lang pháp lý về tài sản số chưa được hoàn thiện, cho nên dẫn đến tình trạng thiếu rõ ràng trong việc xác lập quyền sở hữu và trách nhiệm thuế của doanh nghiệp. Tôi đưa ra ví dụ, như anh Đậu Anh Tuấn đã có chia sẻ về doanh nghiệp tại Việt Nam trị giá tới hàng tỷ đô la (kỳ lân) buộc phải qua Singapore dù doanh nghiệp ấy đã có lượng tiền thu rất lớn thông qua việc bán những vật phẩm game hoặc thông qua những việc giao dịch, trao đổi.
Trong cộng đồng doanh nghiệp của chúng tôi, cũng đã gặp rất nhiều trường hợp để doanh nghiệp phát triển dễ dàng hơn thì họ buộc phải qua các địa bàn lân cận như Singapore, Hong Kong. Điều này không chỉ tạo ra thách thức cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật mà còn gây khó khăn trong việc thu hút vốn, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài.
Lĩnh vực tài sản số là lĩnh vực khá đặc thù khi thu hút rất nhiều vốn đầu tư từ các cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, như anh Phan Đức Trung đã chia sẻ về vốn FDI của Việt Nam năm 2022 và 2023 là 27 tỷ USD và 36 tỷ USD. Trong khi đó, theo báo cáo của Chainalysis - một công ty nổi tiếng trên thế giới về những báo cáo, quy mô tài sản số của Việt Nam trong thời gian từ tháng 06/2022 đến 06/2023 lên tới 120 tỷ USD. Đây là một con số cực kỳ khủng khiếp. Đáng chú ý, cũng theo báo cáo của Chainalysis, lợi nhuận từ đầu tư vào tài sản mã hóa ở thị trường Việt Nam đứng thứ 3 thế giới, khoảng hơn 1 tỷ USD, chỉ sau thị trường Mỹ và thị trường Anh. Đó là những con số tôi nghĩ đáng để lưu ý trong việc quản lý tài sản số tại Việt Nam.
Với mức độ tăng trưởng và thuận lợi này, việc các quy định cũng như định nghĩa đồng bộ với các chuẩn mực quốc tế cũng cực kỳ quan trọng trong việc thúc đẩy vốn đầu tư từ nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể dễ dàng vào Việt Nam hơn. Vừa rồi, công ty chúng tôi may mắn được Ủy ban Môi trường và Công nghệ Quốc hội ghé thăm để làm việc, cũng như lấy ý kiến góp ý về dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số. Chúng tôi cũng đã phối hợp với Hiệp hội Blockchain gửi một số góp ý điều chỉnh về dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Chúng tôi hiểu rằng, những điều chỉnh này sẽ giúp luật pháp Việt Nam trở nên đồng bộ hơn, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Nếu chúng ta chỉ ở công nghệ Blockchain không thì rất hẹp, trong khi thế giới liên tục có những điều chỉnh. Tôi lấy ví dụ, ở châu Âu, trước đây trong những văn bản luật họ quy định VASP, có nghĩa là nhà cung cấp tài sản số. Tuy nhiên, khi luật MiCA mới của châu Âu đã bắt đầu hình thành, họ lại dùng một thuật ngữ khác, đó là Market in Crypto-Assets, họ dùng từ Crypto-Asset, tức tài sản mã hóa. Đó là những luật tôi nghĩ chúng ta cần phải lưu ý và quan tâm.
Đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số và các luật liên quan đến tài sản số sắp tới, tôi rất kỳ vọng các quy định này sẽ mang lại sự minh bạch, cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này, đồng thời hạn chế sự chảy máu chất xám, cũng như thu hút nhiều dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam.
Chúng tôi cũng rất kỳ vọng sẽ thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình Sandbox cho các doanh nghiệp thử nghiệm cũng như ứng dụng công nghệ mới, có sự kiểm soát nhất định. Với sự hỗ trợ này, chúng tôi tin tưởng rằng khi các quy định về tài sản số được luật hóa cụ thể, minh bạch hơn thì doanh nghiệp sẽ có thêm động lực, niềm tin để tiếp tục đầu tư, phát triển, góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp số tại Việt Nam.
Khi tài sản số được xác lập quyền sở hữu theo quy định của luật, một vấn đề quan trọng đặt ra là việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản số. Thưa ông, ông có thể chia sẻ rõ hơn các quy định liên quan đến nội dung về bảo vệ quyền sở hữu tài sản số theo quy định mới của dự thảo luật Luật Công nghiệp công nghệ số?
Ông Đậu Anh Tuấn: Nếu là một tài sản thì việc xác lập và bảo vệ quyền sở hữu rất quan trọng. Chính vì thiếu khuôn khổ pháp lý cho nên trong thời gian vừa qua, có những trục trặc, có rất nhiều vụ sụp đổ, lừa đảo khiến nhiều nhà đầu tư bị mất tiền nhưng không có cơ chế nào để bảo vệ cả. Đấy là một thực tiễn.
Hay ví dụ nhỏ thế này: Chúng ta có tài khoản Facebook mà giá trị có thể lên tới hàng trăm triệu, thậm trí hàng tỷ đồng nhưng có tranh chấp chuyển nhượng liên quan đến tài khoản ấy thì pháp luật hiện nay cũng chưa có căn cứ nào để xử lý cả. Hay có trục trặc giao dịch cũng không có cơ chế nào xử lý. Cho nên đấy là nhu cầu rất lớn từ thực tiễn. Chính vì thế, dự thảo Luật lần này lần đầu tiên đưa ra một định nghĩa pháp lý nhưng còn việc bảo vệ quyền sở hữu thì cần phải có hướng dẫn của các cơ quan chuyên ngành. Chúng tôi cho rằng, việc xác lập ở đây, chúng ta chú trọng một số chế định quan trọng đối với tài sản số.
Trước hết là vấn đề thuế. Hiện nay đúng là phải có hành lang, căn cứ để thực hiện việc thu các sắc thuế như là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp. Đấy là những sắc thuế mà chúng ta có thể thu.
Thứ hai là vấn đề bảo vệ quyền sở hữu, nếu có tranh chấp thì cơ chế xử lý như thế nào. Rồi cũng có thể là vấn đề trách nhiệm của các chủ thể trong việc lưu trữ thông tin, quản lý thông tin về tài sản, đảm bảo an toàn thông tin mạng. Tôi lấy ví dụ: Nếu các sàn giao dịch gặp sự cố, bởi mọi thứ lưu trữ chúng ta không thể cầm nắm vật lý được mà lưu trữ trên không gian mạng nên nếu có sự cố thì quyền lợi của người sở hữu ra sao? Như vậy phải có cơ chế để vẫn có thể khôi phục được. Như thế tránh được tình trạng một số sàn giao dịch huy động tiền của nhà đầu tư rồi sập, khiến nhà đầu tư mất trắng như thời gian vừa qua. Chúng ta phải có quy định liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ trong lĩnh vực này.
Việc này hoàn toàn không dễ, nếu đưa vào dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số thì cá nhân tôi, với tư cách người nghiên cứu về luật nhiều năm, vẫn thấy có sự mong manh. Bởi vì đây là luật chuyên ngành, trong khi liên quan đến quy định về tài sản, liên quan đến chế định, đến sở hữu thì phải là những đạo luật như Bộ luật Dân sự. Cho nên, gốc rễ là chúng ta phải cân nhắc triển khai nghiên cứu, sửa đổi Bộ luật Dân sự hiện tại. Theo khái niệm về tài sản trong Bộ luật Dân sự hiện tại thì tài sản số là không phù hợp. Theo định nghĩa về tài sản của Bộ luật Dân sự về vật, tiền, giấy tờ có giá hay quyền sở hữu tài sản thì cả 4 loại này đều không phù hợp với tài sản số. Những loại được công nhận không phải mà giấy tờ có giá cũng chưa phải. Chính vì thế chúng tôi cho rằng gốc rễ là chúng ta phải triển khai nghiên cứu khái niệm tài sản làm sao toàn diện hơn trong Bộ luật Dân sự thì khi đấy mới bảo vệ một cách chắc chắn.
Chúng ta có căn cứ trong luật và sau đấy quá trình triển khai thì linh hoạt, uyển chuyển và dựa trên những bằng chứng từ thực tiễn. Có lẽ đấy là cách tiếp cận phù hợp cho nên đòi hỏi sự toàn diện, đầy đủ ban đầu có lẽ là khó. Nhưng chúng tôi cho rằng phải nhắm từ nhu cầu thực tiễn và dần dần có khuôn khổ pháp lý phù hợp. Giai đoạn này bắt đầu vẫn là phù hợp, cần thiết. Tôi rất ủng hộ Luật Công nghiệp công nghệ số lần này đề cập đến khái niệm tài sản số.
Dưới góc độ chuyên ngành về chính sách thuế, xin ông Trương Bá Tuấn phân tích thêm xem những quy định mới trong dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số liên quan đến tài sản số sẽ ảnh hưởng như thế nào đến quyền và nghĩa vụ của các chủ thể sở hữu tài sản số trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, bảo đảm môi trường minh bạch, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp công nghệ số tham gia thị trường!
Ông Trương Bá Tuấn: Như tôi trao đổi đầu buổi Tọa đàm, hiện nay, chúng ta có 3 chính sách thuế liên quan đến điều chỉnh mua bán, chuyển nhượng, giao dịch tài sản, đó là: Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng.
Cũng như ông Đậu Anh Tuấn có chia sẻ, nếu chúng ta xem tài sản số là loại tài sản cần quy định ở văn bản quy định pháp luật, mà tới đây chúng ta dự kiến sẽ nằm ở Luật Công nghiệp công nghệ số thì chúng ta sẽ có căn cứ để thực hiện việc thu thuế với các nghĩa vụ thuế phát sinh liên quan đến giao dịch chuyển nhượng tài sản số đó.
Thực tế hiện nay, 3 Luật thuế như tôi vừa trình bày quy định khá rõ về người nộp thuế, đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, phương pháp tính thuế và thuế suất. Trường hợp tài sản số là tài sản thì có căn cứ để thực hiện thu thuế.
Tuy nhiên, ở đây tôi chia sẻ thêm một điểm mà ông Đậu Anh Tuấn đã nêu ra, tức là tài sản số có rất nhiều loại hình mà chúng ta cần định nghĩa rõ. Hiện nay, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số mới nhất của Bộ TT&TT không dùng khái niệm 'tài sản số' mà chuyển sang dùng khái niệm 'tài sản mã hóa'. Cho nên, ngay cả khái niệm chúng ta cũng cần phải thống nhất để phân loại đúng, bởi vì mỗi tài sản số có thể phục vụ cho mục tiêu khác nhau, từ đó mới có căn cứ thực hiện việc thu thuế.
Còn nếu trong trường hợp pháp luật thuế chưa bao quát được các hoạt động liên quan đến tài sản số thì chúng ta không có căn cứ để hoàn thiện pháp luật về thuế. Bởi pháp luật về thuế chỉ quy định về thuế gắn với đặc trưng, đặc điểm, hoạt động quy định ở pháp luật chuyên ngành. Như vậy, chúng ta cần sự đồng bộ trong hoàn thiện các pháp luật có liên quan.
Khi tài sản số được luật hóa, quy định cụ thể, các chủ thể, doanh nghiệp cần có kế hoạch và sự chuẩn bị như thế nào trong triển khai, thực thi theo nhận định của ông?
Ông Trần Huyền Dinh: Nếu dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua, doanh nghiệp chúng tôi cũng đã có một số kế hoạch dự kiến triển khai.
Đầu tiên, tôi đồng tình với ý kiến về những luật liên quan đến phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Phía doanh nghiệp trước tiên phải xây dựng kế hoạch tuân thủ pháp lý, đặc biệt các luật hợp tác quốc tế liên quan đến phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Theo Quyết định 194 của Chính phủ, mục tiêu của chúng ta là phải ra khỏi danh sách xám của FATF. Điều này không chỉ hỗ trợ Việt Nam mà còn giúp chính các doanh nghiệp dễ dàng phát triển hơn khi tham gia thị trường quốc tế.
Từ kinh nghiệm quốc tế, quốc gia nào chưa ra khỏi danh sách xám thì một vài giao dịch từ quốc gia đó hoặc người dùng dịch vụ đó sẽ bị chặn ở một vài giao dịch liên quan, cũng như khi thanh toán quốc tế.
Thứ hai, phía doanh nghiệp đánh giá và cập nhật hệ thống quản lý tài sản số thì doanh nghiệp cần thực hiện đánh giá toàn diện về hệ thống quản lý tài sản số hiện tại cũng như xác định, khắc phục những điểm yếu hoặc thiếu sót so với các quy định mới. Điều này bao gồm việc xây dựng một kế hoạch cụ thể nhằm đưa tài sản số về quản lý tại Việt Nam một cách hiệu quả và an toàn. Khi doanh nghiệp làm được việc này thì tài sản số được bảo vệ một cách an toàn hơn.
Thứ ba, chúng tôi tiếp tục thúc đẩy cũng như nâng cao nhận thức để đảm bảo tất cả nhân viên, lãnh đạo cũng như các doanh nghiệp khác tuân thủ các quy định mới. Ví dụ về thương mại điện tử vừa rồi, rất nhiều cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh trên sàn thương mại điện tử, nhưng khi áp dụng luật mới vào thì họ rất bất ngờ về số thuế phải đóng. Khi họ vận hành hoạt động theo mô hình cá nhân, họ không quan tâm quy định pháp luật về đóng thuế mới. Doanh nghiệp chúng tôi kết hợp với các hiệp hội, cộng đồng để xây dựng các chương trình đào tạo, thiết kế, cung cấp kiến thức về luật pháp và quy trình mới về tài sản số cũng như cách phát hiện và xử lý rủi ro tiềm ẩn để thực hiện tốt pháp lý về kinh doanh hiệu quả nhất.
Ông Phan Đức Trung có nhận định và đánh giá như thế nào về tác động của các quy định thuế mới dự kiến được thực hiện đối với sự nghiệp phát của ngành blockchain tại Việt Nam? Hiệp hội Blockchain có kế hoạch hay đề xuất nào để hỗ trợ các doanh nghiệp blockchain tuân thủ quy định mới khi Luật được thông qua?
Ông Phan Đức Trung: Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều kỳ vọng việc đầu tiên là tài sản số được đọc tên trong Luật. Việc đọc tên ấy dù là tài sản số hay tài sản mã hóa, hay là gì thì cũng phải gắn với chữ tài sản, và phải có một tham chiếu gọi là tham chiếu ngược với các bộ luật khác hình thành tài sản.
Như chúng ta đã biết, trong Bộ luật Dân sự đã có quy định rất rõ về tài sản, như ông Đậu Anh Tuấn đã chia sẻ. Bộ luật Dân sự đã định nghĩa tiền là quyền tài sản, mà rất nhiều lần chính Bộ Tư pháp đã giải thích, quan điểm của Bộ Tư pháp là không cần định nghĩa lại. Tất nhiên quyền định nghĩa trong các bộ luật là của Quốc hội, và Quốc hội phải tham chiếu để làm sao trong quá trình tranh chấp, phải có điều kiện cần và đủ, tức là nhìn xuôi và nhìn ngược. Vậy nên tôi rất hy vọng định nghĩa tài sản số sẽ là cơ sở để chúng ta từ từ ban hành. Nhưng chúng ta phải lưu ý vấn đề về thuế. Theo báo cáo của Công ty Kiểm toán PWC, kể cả khi có chính sách thuế, từ 55-95% các quốc gia bị thất thu thuế về ngành này. Lý do rất đơn giản là khi có chính sách ban hành, chúng ta không có một bên thứ ba giám sát. Có rồi nhưng các doanh nghiệp cũng không biết đường nào mà làm, dẫn đến từ 55-95% thất thu thuế. Chúng ta phải chuẩn bị đào tạo về nhận thức cho cả doanh nghiệp. Không phải họ cố ý mà họ không biết làm như thế nào, và họ tự đi vào thất thu thuế, cơ quan quản lý cũng không biết làm như thế nào.
Vai trò của Hiệp hội thì chúng ta đều có thể nhìn thấy. Hiệp hội Blockchain Nhật Bản năm 2023 đã đệ trình một khuyến nghị về thuế và chuẩn bị cho chính sách thuế năm 2025 của nước Nhật được cải cách. Tức là một chính sách thuế người ta phải đệ trình 2 năm dựa trên phát triển cộng đồng. Nhật là một nước có hệ thống đánh giá về thuế thu nhập trong hoạt động về tài sản số nằm ở mức 5-45%. Có một điều rất đặc biệt là tôi nhìn qua các dòng thuế của các nước thì họ chú ý đánh vào dòng thuế phát sinh tại quốc gia, nhưng ngược lại họ khuyến khích các dòng thuế về chuyển dịch tài sản. Khi chúng ta ban hành chính sách thuế phải có nghĩa rất rõ, mở rộng các khái niệm về mở tài khoản ngân hàng, khái niệm về đầu tư, khái niệm về người cư trú và không cư trú, thì chúng ta mới khai thác được tất cả tài nguyên. Nếu chúng ta làm không tốt thì sẽ có những luật thuế biến tất cả doanh nghiệp Việt Nam thành doanh nghiệp nước ngoài, rồi có những luật thuế biến tất cả doanh nghiệp nước ngoài thành Việt Nam. Chúng ta phải chú ý đến những dòng thuế này. Chỉ mong các luật thuế này ra đời thận trọng, cứ từng bước một, quá trình triển khai chúng ta lắng nghe.
Từ góc độ Hiệp hội, chúng tôi xin cam kết luôn là cầu nối để từ cộng đồng, từ kinh nghiệm quốc tế, từ các chia sẻ, để chúng ta biết chính xác bảo vệ lợi ích trong 4 khuôn khổ về luật pháp, từ bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ chính sách thuế, bảo vệ về chống rửa tiền và cấp phép cho các nhà hoạt động cung cấp dịch vụ này như sàn, lưu ký tài sản số, được tổ chức như thế nào và đạt tiêu chuẩn như thế nào. Cuối cùng, chúng ta phải hiểu tài sản số là tài sản mang tính chất thanh toán xuyên biên giới, nó đi đến đây thì không được gây hệ lụy ở đây và nó có thể giúp mọi quốc gia giàu có lên như hút dòng vốn FDI.
Qua sự sâu chuỗi, đánh giá và phân tích vấn đề, ngoài các nội dung đã được đề xuất, các đại biểu có đề xuất, kiến nghị, góp ý gì thêm đối với của dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số nói chung và những nội dung liên quan đến việc xác định tài sản số, đánh thuế tài sản số? Các đại biểu kỳ vọng gì về cơ hội và triển vọng phát triển của ngành công nghiệp công nghệ số nói chung và Blockchain nói riêng khi dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua với nhiều nội dung mới, nổi bật được quy định? Những giải pháp gì để tạo điều kiện tốt nhất, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số phát triển, đóng góp hơn nữa cho phát triển kinh tế xã hội thời kỳ mới?
Ông Đậu Anh Tuấn: Qua trao đổi của anh Trung, anh Tuấn, anh Dinh, tôi có thể thấy rằng vấn đề này rất lớn và mới. Khi nó quan trọng và mới thì chúng ta cần tránh những phản ứng khác nhau giữa các cơ quan lập chính sách, tạo ra sự không nhất quán.
Chính vì thế tôi cũng kỳ vọng rằng bên cạnh những điều khoản đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, có lẽ chúng ta cần có chiến lược lớn hơn, bài bản hơn, quy định rõ hơn về việc xây dựng chính sách. Chúng ta phải có sự đồng bộ, nhất quán về chính sách, như vậy thì hiệu ứng sẽ tốt hơn. Chẳng hạn như anh Phan Đức Trung có nói về vấn đề làm sao chúng ta có thể khai thác được lợi ích, phòng ngừa những rủi ro. Lợi ích như làm sao cho những người giàu, nguồn vốn phải đến Việt Nam. Nhưng ngược lại, chúng ta phải ngăn chặn việc rửa tiền, ngăn chặn việc làm suy giảm hình ảnh, uy tín quốc gia từ tài sản số, công nghệ số. Cho nên phải có chính sách phối hợp như chính sách về phòng chống rửa tiền, chính sách về ngân hàng, chính sách về an ninh, chính sách về bảo mật. Những chính sách này phải đồng bộ bên cạnh chính sách về thu thuế. Chúng ta cần phải có kế hoạch đồng bộ hơn.
Tôi hy vọng rằng bên cạnh việc có điều khoản về tài sản số trong Luật Công nghiệp công nghệ số rất, chúng ta cần có chiến lược bài bản hơn, phân công trách nhiệm, nghĩa vụ… các bộ, ban, ngành cần phải làm chứ không phải riêng Bộ Tài chính. Trong dự thảo Luật hiện tại, tôi nhìn thấy dường như trách nhiệm của Bộ Tài chính là đầu mối. Thực ra chúng ta cần tới vai trò của Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp,... nhiều cơ quan có liên quan nữa. Đấy là điều mà tôi cho rằng lớn hơn, dài hạn hơn.
Ông Trương Bá Tuấn có giải pháp gì hiến kế để tạo điều kiện tốt nhất thúc đẩy công nghiệp công nghệ số phát triển và từ đó doanh nghiệp có thể đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ mới?
Ông Trương Bá Tuấn: Như tôi đã chia sẻ thì các tài sản số hay tài sản mã hóa phát triển rất mạnh trong thời gian gần đây và là xu thế tất yếu. Thời gian tới, với sự phát triển của khoa học công nghệ chắc chắn sẽ có những phát triển mới. Cho nên rõ ràng việc chúng ta có được hành lang pháp lý để quản lý được các hoạt động liên quan đến tài sản số hay tài sản mã hóa rất quan trọng.
Nhất là câu chuyện chúng ta bàn hôm nay là Luật Công nghiệp công nghệ số, có thể là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên đưa ra khái niệm và định nghĩa về tài sản số hay là tài sản mã hóa. Xung quanh định nghĩa đó, như chúng ta đã nói, phải có sự trao đổi, bởi vì tài sản số, tài sản mã hóa có rất nhiều loại hình và mỗi loại hình tài sản số có thể sử dụng trong những mục tiêu khác nhau. Cho nên chúng ta phải làm rõ được bản chất, đặc trưng của từng loại hình. Có như vậy, cơ quan quản lý nhà nước mới có điều kiện, căn cứ để xây dựng, tổ chức và thực thi chính sách phục vụ cho việc quản lý nhà nước. Mặt khác góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp số theo đúng định hướng, chủ trương.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế giới phẳng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay, công nghiệp công nghệ số ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò động lực, chủ đạo của mình trong nền kinh tế.
Qua tọa đàm, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn những ý kiến đánh giá, phân tích, khuyến nghị, đề xuất hết sức sâu sát, phù hợp đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số đang được lấy ý kiến rộng rãi của các cấp, các ngành và nhân dân, nhất là đối với những vấn đề trọng tâm của dự án luật về xác định tài sản số; các công cụ quản lý tài sản số và các chính sách đi kèm như vấn đề đánh thuế tái sản số, bảo vệ tài sản số, tạo sân chơi an toàn, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các chủ thể đầu tư phát triển công nghiệp công nghệ số;…
Chúng ta tin tưởng và kỳ vọng, Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số sau khi được tiếp thu, bổ sung, hoàn thiện và thông qua, ngành công nghiệp công nghệ số nước ta sẽ thực sự có những bước bứt phá, đột phá và phát triển mới, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực chuyển đổi số quốc gia, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
>> ‘Việt Nam cần sớm có khung pháp lý phát triển tài sản số’