Vị Bộ trưởng trẻ nhất Chính phủ lâm thời nhận chức khi mới 26 tuổi, là nhà thơ xuất sắc của Việt Nam
Không chỉ là một chính khách xuất sắc, ông còn là một trong những nhà thơ lớn với hàng loạt những tác phẩm chan chứa tình yêu quê hương, con người.
2 lần làm Bộ trưởng, 5 lần nhận chức Thứ trưởng
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31/5/1919 tại xã Ân Phú, huyện Đức Thọ (cũ), tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân. Tuổi thơ ông gắn bó với làng quê xứ Nghệ, nơi đã sớm nuôi dưỡng trong ông tình yêu quê hương, con người và tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp.
Sau này, ông vào Huế học và đỗ Tú tài. Ngay trong những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, Huy Cận đã bộc lộ năng khiếu văn chương nổi bật khi viết bình luận văn học cho Báo Tràng An và cho ra đời nhiều bài thơ đầu tay.
Năm 1939, Huy Cận ra Hà Nội học tại Trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, Huy Cận bắt đầu dấn thân vào con đường cách mạng khi tham gia hoạt động bí mật trong Mặt trận Việt Minh.

Ông được giao nhiệm vụ vận động giới trí thức và thanh niên ở Hà Nội, góp phần quan trọng vào công cuộc chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám. Đến cuối tháng 7/1945, ông tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc – tiền thân của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ lâm thời, cùng với ông Nguyễn Lương Bằng và Trần Huy Liệu vào Huế dự lễ thoái vị của vua Bảo Đại. Sự kiện lịch sử trọng đại này đánh dấu sự kết thúc của chế độ phong kiến và mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Khi mới 26 tuổi, Cù Huy Cận trở thành Bộ trưởng trẻ nhất trong Chính phủ lâm thời, giữ chức Bộ trưởng không giữ Bộ nào trong Nội các quốc gia thống nhất theo Tuyên cáo ngày 28/8/1945.
Tháng 11 cùng năm, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Canh Nông và ông được giao giữ chức Bộ trưởng đầu tiên. Đến tháng 12/1945, ông tiếp tục được bổ nhiệm làm Bộ trưởng kiêm Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Trong những năm tiếp theo, Cù Huy Cận được tin tưởng giao nhiều trọng trách trong bộ máy Nhà nước. Tháng 11/1946, ông làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ; trong kháng chiến chống Pháp, đảm nhiệm cương vị Thứ trưởng Bộ Canh nông và Thứ trưởng Bộ Kinh tế. Giai đoạn 1949-1955, ông giữ chức Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ; từ 1955-1984, tiếp tục cống hiến với vai trò Thứ trưởng Bộ Văn hóa; đến tháng 9/1984, ông đảm nhiệm chức Bộ trưởng đặc trách công tác văn hóa – thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
Song song với sự nghiệp chính trị, Cù Huy Cận còn là người có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật. Ông từng giữ các chức vụ quan trọng như Phó Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (thứ ba, sau Nguyễn Tuân và Đặng Thai Mai), đồng thời là Đại biểu Quốc hội các khóa I, II và VII.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng và văn hóa, Cù Huy Cận đã 5 lần giữ cương vị Thứ trưởng và 2 lần đảm nhận chức vụ Bộ trưởng ở các bộ khác nhau. Ở bất kỳ vị trí nào, ông cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm, trí tuệ và tâm huyết của mình.
Hiện tượng nổi bật của phong trào Thơ Mới
Không chỉ là một chính khách xuất sắc, Huy Cận còn là một trong những nhà thơ lớn của nền thi ca Việt Nam. Suốt cuộc đời mình, ông đi nhiều, viết nhiều, và trong từng câu chữ luôn chan chứa tình yêu quê hương, con người cùng niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Huy Cận bắt đầu sáng tác từ năm 1936, khi còn là học sinh tú tài ở Huế. Mới 19 tuổi, ông cho ra đời tập thơ đầu tay Lửa thiêng. Ông đã đưa thể thơ lục bát lên tầm biểu đạt mới bằng sự hòa quyện giữa chất cổ điển của Đường thi và tinh thần tự do, hiện đại của thơ phương Tây. Nhờ đó, tác phẩm nhanh chóng trở thành một trong những hiện tượng nổi bật của phong trào Thơ Mới (1932-1942).

Những bài thơ như Chiều xưa, Buồn đêm mưa, Ngậm ngùi thể hiện rõ “điệu hồn” Huy Cận trước cách mạng – nỗi buồn cô đơn, sầu cảm, một thứ “sầu từ vạn cổ” thấm vào từng con chữ. Thơ ông vừa hiện đại, vừa thấm đẫm tinh thần Đường thi và mạch nguồn dân tộc, tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
Tên tuổi Huy Cận được khẳng định vững vàng trong nền thơ Việt. Hàng trăm công trình nghiên cứu sau này đều đánh giá ông là một tài năng xuất chúng, người góp phần định hình diện mạo thơ ca hiện đại bằng cảm hứng triết lý và nhân văn sâu sắc.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Huy Cận tiếp tục sáng tác không ngừng, xuất bản 25 tập thơ phản ánh niềm vui, niềm tự hào của con người trong cuộc sống mới, đồng thời thể hiện khát vọng dựng xây và cống hiến cho đất nước.
Từ nỗi buồn u tịch của Lửa thiêng đến niềm tin yêu chan hòa trong những vần thơ kháng chiến, hành trình sáng tác của Huy Cận là hành trình chuyển hóa từ “sầu nhân thế” sang “lạc quan cách mạng”, biểu hiện rõ nét sự trưởng thành của một tâm hồn thi sĩ gắn bó trọn vẹn với dân tộc.

Cuộc đời và sự nghiệp của Cù Huy Cận là biểu tượng đẹp về sự hòa quyện giữa tài năng thi ca và lý tưởng cách mạng, về hình ảnh người trí thức Việt Nam suốt đời tận hiến cho đất nước, để lại cho thi đàn dân tộc một di sản nghệ thuật sâu sắc và bền vững.
Bài viết có sử dụng thông tin tham khảo từ các nguồn:
- Huy Cận và những đóng góp quan trọng cho thơ ca hiện đại Việt Nam - Báo Hà Tĩnh
- Huy Cận - Nhà thơ tiêu biểu có đóng góp lớn cho văn học nước nhà - Báo Điện tử Vietnam+
- Bộ trưởng 26 tuổi được chọn vào Thường trực Bắc Bộ Phủ - Tạp chí tri thức