Vị Thượng tướng được đích thân Bác Hồ đặt tên: Tuổi 27 nhận hàm Đại tá, là người thầy mẫu mực của nhiều tướng lĩnh quân đội Việt Nam
Ông được biết đến là một vị tướng giỏi trận mạc, uyên thâm về lý luận quân sự, bậc thầy của nghệ thuật dụng binh.
Đại tá trẻ nhất lịch sử Quân đội Quốc gia Việt Nam
Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hoàng Minh Thảo sinh ngày 25/10/1921, tên khai sinh là Tạ Thái An, quê tại xã Bảo Khê, huyện Kim Động (nay thuộc thành phố Hưng Yên), tỉnh Hưng Yên. Ông sớm giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động từ năm 1937 tại Lạng Sơn.

Đến năm 1941, ông gia nhập Việt Minh và được cử đi học quân sự tại Liễu Châu, Trung Quốc cho đến năm 1944. Trong thời gian học tại đây, ông vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp đặt tên mới là Hoàng Minh Thảo, một cái tên hàm chứa dự báo về tương lai của ông với quân đội. Họ "Hoàng" được lấy từ tên của trường quân sự Hoàng Phố, còn tên đệm "Minh Thảo", theo lời Bác Hồ: "Bác thấy chú là con người nhanh nhẹn, tháo vát và thông minh. Chú có cách sống giản dị, đối xử với anh em đồng đội rất nghĩa tình và thơm thảo. Do vậy Bác đặt tên, đệm của chú là: Minh Thảo, chú thấy có được không?".
Trở về nước, ông tham gia Ban phụ trách Công tác biên giới của Tổng bộ Việt Minh, là Ủy viên dự khuyết Tỉnh ủy lâm thời Lạng Sơn. Ngày 3/3/1945, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tham gia giành chính quyền tại Lạng Sơn. Tháng 10/1945, khi mới 24 tuổi, ông được giao trọng trách Khu trưởng Chiến khu 3, thay tướng Nguyễn Bình vào Nam làm Tư lệnh Nam Bộ.

Chiến khu 3 khi ấy bao gồm các tỉnh duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ, là địa bàn trực diện đối đầu với quân Pháp đổ bộ từ cửa biển Hải Phòng. Người thanh niên tuổi ngoài đôi mươi đã đứng đầu một vùng chiến lược trải dài từ Hải Dương đến Móng Cái (thuộc tỉnh Hải Ninh lúc đó), cho thấy tài năng và bản lĩnh hiếm có.
Năm 1948, Hoàng Minh Thảo là Đại tá trẻ nhất của Quân đội Quốc gia Việt Nam được phong cấp hàm khi mới 27 tuổi. Từ năm 1949 đến 1950, ông làm Tư lệnh Liên khu 4. Sau Chiến dịch Biên giới năm 1950, khi các đại đoàn chính quy được thành lập, ông trở thành Đại đoàn trưởng đầu tiên của Đại đoàn 304 giai đoạn 1950-1954 và trực tiếp chỉ huy đơn vị này trong Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, suốt gần 10 năm (1966-1975), ông được giao nhiều vị trí chỉ huy tại chiến trường Tây Nguyên. Năm 1966 là Phó tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên; năm 1968 là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên; năm 1974 là Phó Tư lệnh Quân khu 5; đến tháng 3/1975, ông là Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên.
Với con mắt chiến lược sắc sảo của một nhà quân sự, ông là người đầu tiên đề xuất chọn Nam Tây Nguyên làm hướng đột phá và Buôn Ma Thuột là điểm mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên. Chiến thắng vang dội tại đây đã tạo tiền đề chiến lược quan trọng, mở ra thời cơ đột phá để tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bậc thầy nghệ thuật dụng binh
Không chỉ là vị tướng tài ba nơi trận mạc, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo còn được mệnh danh là "bậc thầy của nghệ thuật dụng binh". Với vai trò người đứng đầu các cơ sở đào tạo cao cấp nhất của quân đội như Trường quân sự Trung cao, Học viện Quân sự và sau này là Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự (nay là Viện Chiến lược Quốc phòng), ông đã thể hiện tầm vóc một nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà tổ chức và nhà nghiên cứu quân sự mẫu mực.

Năm 1990, dù tuổi cao, ông vẫn được tín nhiệm giữ cương vị Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự, một vị trí đòi hỏi cả trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn.
Trong suốt thời gian công tác ở lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu, ông dốc tâm huyết truyền đạt tri thức và kinh nghiệm thực tiễn cho thế hệ cán bộ kế cận. Ông từng nghiên cứu sâu rộng về phép dùng binh cổ kim, Đông Tây và công bố nhiều công trình quan trọng như Học tập khoa học quân sự Xô Viết (1958), Tổ tiên ta đánh giặc (1969), Thất bại của một sức mạnh phi nghĩa (1975), Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng (1977), Tìm hiểu một số vấn đề về nghệ thuật chỉ huy (1987), Nghệ thuật tác chiến: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn (1990), Về cách dùng binh (1997), Mấy vấn đề về nghệ thuật quân sự (2001)...

Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng, ông trực tiếp tham gia đào tạo, hướng dẫn hàng trăm cán bộ quân đội đạt trình độ Tiến sĩ trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật quân sự. Nhiều học trò của ông đã trở thành tướng lĩnh, đảm nhiệm các chức vụ quan trọng tại các quân khu, quân đoàn và các cơ quan chiến lược thuộc Bộ Quốc phòng.
Với tài năng và trí tuệ xuất chúng, ông được ngợi ca là vị tướng toàn tài, giỏi tác chiến, sâu sắc về lý luận, mẫu mực trong giáo dục và nghiên cứu. Trong cuộc đời binh nghiệp, ông từng đúc kết: “Mưu sinh ra kế, thế đẻ ra thời. Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thời thế”.

Ghi nhận những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và quân đội, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo được phong tặng danh hiệu Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân đợt đầu tiên. Ông được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.

Ông từ trần ngày 8/9/2008 tại Hà Nội. Đến tháng 12/2023, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.