Tuy đã gần 50 năm trôi qua nhưng đây vẫn là thảm họa vỡ đập tồi tệ nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Một trong những thảm họa vỡ đập kinh hoàng nhất thế giới
Đập Bản Kiều là một công trình thủy điện nằm trên sông Nhữ, tại địa cấp thị Trú Mã Điếm thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Công trình này được xây dựng vào những năm 1950, là một trong những thủy điện tầm cỡ quy mô lớn đầu tiên của Trung Quốc. Sau đó con đập đã được các kỹ sư Liên Xô gia cố lại.
Tuy nhiên vào năm 1975, con đập này đã phải đối mặt với siêu bão Nina, lượng mưa đo được trong 3 ngày liên tiếp lên đến 1605,3mm. Lượng nước mưa quá nhiều khiến con đập Bản Kiều bị vỡ và gây ra thảm họa kinh hoàng bậc nhất thế giới khiến hàng trăm nghìn người thương vong.
Vào rạng sáng ngày 8/8/1975, đập Bản Kiều đã bị vỡ, khiến nước tràn ra ngoài. Mực nước tăng lên cao hơn 7m so với mặt đất, tạo thành một cảnh tượng giống như thác nước lớn đổ ập xuống, khiến xã Văn Thành trở thành nơi chịu sào, gần như bị cuốn trôi mọi thứ. Chỉ sau một giờ, lũ nước đã tràn đến huyện Toại Bình cách đó 45km, với mặt nước lũ rộng lên đến 10km. Cư dân tại đây không nhận được cảnh báo về sự vỡ đập và lũ lụt, nhiều người đột nhiên bị bủa vây bởi nước lũ, còn người khác hoảng sợ lao ra ngoài để cố gắng thoát thân nhưng đều bị lũ “nuốt chửng”.
Ngay sau khi hồ Thạch Mạn Than bị vỡ, hai hồ chứa lớn khác như Trúc Câu (Zhugou) và Điền Cương (Tiangang) cùng với 58 hồ chứa nhỏ khác cũng bị sụp đổ chỉ trong vài giờ ngắn ngủi. Nhiều hồ chứa trên dòng sông Hoài, ở trung và hạ lưu, bị bùng nổ với sức mạnh lớn, cư dân không kịp nhận được bất kỳ cảnh báo nào và không thể chạy thoát, cuối cùng đã chịu cái chết dưới cơn lũ.
Vụ sụp đổ của các hồ chứa này đã khiến 7 huyện Toại Bình, Tây Bình, Nhữ Nam, Bình Hưng, Tân Thái, Loa Hà và Lâm Tuyền bị ngập trong biển nước, với độ sâu lên đến vài mét.
Theo cơ quan thủy văn tỉnh Hà Nam, thảm họa này đã gây ra tổn thất nặng nề khiến 26.000 người thiệt mạng trong lũ lụt và 145.000 người khác bị thương hoặc mất tích sau đó do dịch bệnh và nạn đói; hơn 5,96 triệu ngôi nhà đã bị phá hủy, làm cho khoảng 11 triệu người trở thành vô gia cư. Hơn 100km tuyến đường Bắc Kinh-Quảng Châu bị phá hủy và tuyến đường Bắc Kinh-Quảng Châu bị cắt đứt trong 18 ngày, ảnh hưởng đến hoạt động giao thông bình thường trong 48 ngày. Thiệt hại kinh tế trực tiếp khoảng 10 tỷ nhân dân tệ. Những số liệu này được công bố rõ ràng vào năm 2005.
Sự cố này cũng đã làm hỏng một nguồn năng lượng lớn cung cấp cho Trung Quốc. Với công suất lên đến 18GW (tương đương với 9 nhà máy nhiệt điện hoặc 20 lò phản ứng hạt nhân) nhà máy thủy điện này được xem là có khả năng đáp ứng 1/3 nhu cầu sử dụng năng lượng cao điểm của Vương quốc Anh.
>> Đập thủy điện 'cõng' tàu thủy nặng 500 tấn đi xuyên qua núi
Lý do đằng sau sự cố vỡ đập
Đập Bản Kiều nằm trên sông Nhữ, tại địa cấp thị Trú Mã Điếm, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Công trình này, được hoàn thành vào năm 1952, là một phần của chiến dịch "Chế ngự sông Hoài" và các nhánh của nó, nhằm đối phó với các trận lụt nghiêm trọng xảy ra vào những năm trước đó.
Đây cũng là công trình cung cấp nước tưới cho đất nông nghiệp trong lưu vực sông Hoài, khu vực bao gồm một số tỉnh và là nơi sinh sống của 170 triệu người.
Lõi của đập được tạo thành từ hàng tấn đất sét, đa phần không thấm nước, được bao bọc bởi một lớp vỏ cát dày. Đập cao tám tầng, có nhiệm vụ giữ 158 tỷ gallon nước, tương đương 240.000 bể bơi Olympic, không đổ xuống các ngôi làng bên dưới.
Ngay sau khi đập Bản Kiều hoàn thành năm 1952, theo International Rivers, đã xuất hiện các vết nứt vỡ. Do đó, giai đoạn 1955-56, cấu trúc này đã được cải tạo lại, đưa Bản Kiều thành "con đập thép" bất khả chiến bại. Công trình này được quan chức chính phủ cho là đủ rộng, đủ cao và đủ vững chắc để chịu được lũ lụt kéo dài 100 năm và thậm chí 1.000 năm.
Tuy nhiên, thảm họa đã xảy ra khiến vào năm 1975, khiến hàng trăm nghìn người mất mạng. Các chuyên gia cho rằng, những sai sót trong quá trình xây dựng của đập Bản Kiều đã dẫn tới thảm họa vỡ đập kinh hoàng.
Ông Chen Xing, một chuyên gia thuỷ văn người Trung Quốc, đã tham gia vào việc xây dựng đập Bản Kiều và từng bày tỏ sự lo ngại về chính sách xây dựng đập của chính phủ. Ông cảnh báo rằng việc xây dựng quá nhiều đập và hồ chứa có thể làm tăng mực nước ngầm ở tỉnh Hà Nam lên mức vượt quá mức an toàn và gây ra thảm họa. Ông cũng đã đề xuất xây dựng 12 cửa xả cho đập Bản Kiều, nhưng ý kiến này đã bị bỏ qua và dự án chỉ được thiết kế với 5 cửa xả.
Sau đó, các "sai phạm kỹ thuật" tại đập Bản Kiều đã ngày càng gia tăng. Các công nhân tham gia vào việc xây dựng đập không có kinh nghiệm trong việc xây dựng hồ chứa. Các vết nứt đã hình thành ở năm cửa xả mà chính phủ đã cho phép, cũng như trong thân đập.
Các vết nứt này cuối cùng đã được khắc phục với sự hướng dẫn từ các kỹ sư Liên Xô, nhưng không có sự bảo dưỡng hoặc kiểm tra thường xuyên để đảm bảo rằng đập sau khi được sửa chữa có thể chịu được một trận mưa lớn hay không.
Kỹ sư Dan Wade, chuyên gia về cơ sở hạ tầng tài nguyên nước tại GEI Consultants ở California (Mỹ), đã nhấn mạnh: "Cần phải coi các con đập như các sinh vật cần được chăm sóc suốt đời. Nhưng với đập Bản Kiều, dựa trên tất cả tài liệu, hồ sơ, không có bất kỳ sự bảo dưỡng nào được ghi nhận."
Theo chính phủ Trung Quốc, đập Bản Kiều được thiết kế để chịu tần suất lũ 1.000 năm một lần, tương ứng với lượng mưa 300mm/ngày. Tuy nhiên, thực tế, trận lũ với tần suất 2.000 năm đã xảy ra. Do đó, đập Bản Kiều đã phải chịu cơn lũ lịch sử này, với 697 tỷ m3 nước, trong khi năng lực thiết kế chỉ là 492 tỷ m3 nước.
Trong vòng ba ngày, lượng mưa khoảng 1397mm và có lúc lên tới 1600mm, đổ xuống khu vực này, nơi thường chỉ nhận được ít hơn 800mm một năm. Lượng mưa này gần bằng nửa dung tích nước tối đa mà hồ chứa ban đầu được thiết kế để chứa. Số nước này đã nâng mực nước của hồ chứa lên 370 feet (khoảng 113m), cao hơn khoảng 14 feet (khoảng 4,3m) so với mức mà tường đập có thể giữ lại.
Vào thời điểm đó, đập Bản Kiều đang đối diện với nguy cơ nghiêm trọng. Kỹ sư Wade lưu ý: "Đập đất có thể an toàn như đập bê tông nếu chúng được xây dựng đúng cách. Nhưng một đập đất có điểm yếu căn bản là cần tránh tràn đập bằng mọi cách. Nước chảy qua một đập đất sẽ cuốn trôi vật liệu cát, đất sét hoặc đất ban đầu ở đỉnh của đập, sau đó sẽ xói mòn dần dần, dẫn đến sự sụp đổ."
Khi cơn bão đầu tiên tấn công, nước lũ của sông Nhữ phải được xả qua các cửa xả. Tuy nhiên, ban đầu, những người quản lý đập đã được yêu cầu đóng cửa. Lý do được giải thích là những cửa này vẫn chưa được mở để giảm thiểu tình trạng lũ lụt nghiêm trọng ở hạ lưu, nơi mà luồng bão đang quét qua tỉnh Hà Nam. Khi tình hình trở nên nghiêm trọng, các đường liên lạc đã bị cắt đứt bởi cơn bão. Vì không có thông tin, các quản lý đập Bản Kiều đã chậm trễ trong việc mở 5 cửa xả lũ. Lúc đó, những cửa xả lũ này đã bị chặn một phần bởi phù sa tích tụ khi cơn bão ập đến.
Khi đập Bản Kiều vỡ, dòng nước với vận tốc lên tới 50km/h đã lao về phía thung lũng dưới, cuốn đi 62 con đập khác như hiệu ứng domino. Trong vòng vài phút, các làng với hàng nghìn cư dân đã bị chìm trong biển nước.
Chỉ trong vòng 6 giờ sau khi vỡ đập Bản Kiều, ước tính đã có 26.000 người thiệt mạng, nhiều người trong số đó đang ngủ. Các đường dây liên lạc không thông suốt khiến không có cơ hội cho bất kỳ cuộc di tản quy mô lớn nào.