Cuộc sống của 4 đại mỹ nhân nức tiếng Hà Nội xưa: Người trăm bề viên mãn, người bất hạnh hóa điên
Đặc biệt, 2/4 giai nhân ấy gần như “biến mất” trong chiến tranh, càng khiến hình ảnh những người đẹp phố cổ thêm phần huyền thoại và gợi nhiều tiếc nuối.
Vào thập niên 30 của thế kỷ XX, người Hà Nội truyền tai nhau về “Hà thành tứ mỹ” hay “Tứ đại mỹ nhân Hà thành” - 4 giai nhân nổi tiếng gồm cô Phượng Hàng Ngang, cô Síu Cột Cờ, cô Nga Hàng Gai và cô Bính Hàng Đẫy.
Cô Bính phố Hàng Đẫy
Trong “tứ mỹ”, cô Bính Hàng Đẫy, tên thật là Đỗ Thị Bính (sinh năm 1915) được xem là người có cuộc đời viên mãn nhất. Là con gái cụ Đỗ Lợi - nhà thầu khoán lớn nhất Hà Nội trước năm 1930, cô sống trong căn nhà số 37 Hàng Đẫy (nay là số 67 Nguyễn Thái Học).
Với làn da trắng sứ, cô thường mặc áo dài đen để tôn thêm vẻ kiều diễm, bởi vậy người đời gọi cô là “giai nhân áo đen”.

Ngay từ nhỏ, cô được cha mẹ cưng chiều hết mực. Gia đình mời thầy giỏi về dạy học, thuê đầu bếp từng nấu cho vua Bảo Đại để chăm chút từng bữa ăn cho cô. Dù vậy, cô rất kén ăn, đặc biệt không chịu ăn thịt gà. Cụ Lợi từng treo thưởng “ăn miếng gà, thưởng nhẫn kim cương” nhưng cô vẫn từ chối. Chỉ đến khi đầu bếp triều đình chế biến món bún thang đặc biệt, cô mới chịu ăn và từ đó yêu thích món ăn này.
Theo học trường Tây, cô Bính sớm hình thành phong cách nền nã, “công dung ngôn hạnh” đầy đủ. Từ khi còn trẻ, cô đã phụ giúp công việc gia đình, được nhiều người mến mộ bởi nhan sắc và sự khéo léo.
Trong số những người si mê cô, nổi bật nhất là nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, con trai học giả Nguyễn Văn Vĩnh, khi đó làm việc cho báo Annam Nouveau. Ông thường dừng chân trước nhà cô chỉ để ngắm người con gái đang đọc sách hay tưới cây. Không một lời tỏ tình, nhưng “ánh mắt đã nói thay lòng”.
Hình ảnh người con gái Hà thành với “đôi môi đỏ” xuất hiện trong nhiều tác phẩm của ông như Tay ngà, Chùa Hương... Mối tình ấy dang dở khi gia đình cô không ưng thuận, còn nhà thơ qua đời ở tuổi 24 vì bệnh lao.

Sau đó, cô Bính kết hôn với kỹ sư Bùi Tường Viên, một du học sinh Pháp trở về nước. Đám cưới của họ được tổ chức linh đình nhiều ngày, được xem là mối lương duyên “trai tài gái sắc”. Cuộc sống vợ chồng của họ êm đềm, hòa thuận. Bà Bính chu toàn việc nhà, chăm sóc cha mẹ và chồng con.
Dù bận rộn, bà vẫn dành thời gian đọc sách, yêu văn chương. Ông Viên hết mực trân trọng vợ, về sau giữ chức Hiệu trưởng Trường Mỹ nghệ Đông Dương (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội).
Năm 1946, khi chiến sự bùng nổ, gia đình bà tản cư lên Tuyên Quang. Ở vùng kháng chiến, bà làm đủ nghề từ bán bánh cuốn, bán phở, làm nước tương, đến học tiêm thuốc, chăm sóc bệnh nhân. Tấm lòng nhân hậu khiến người dân trìu mến gọi bà là “bà tiên kháng chiến”.
Cô Phượng Hàng Ngang
Vương Thị Phượng là con gái cưng của thương gia Vương Toàn Thắng, chủ tiệm tơ lụa giàu có ở phố cổ. Ngay từ khi sinh ra, cô đã sở hữu làn da trắng như trứng gà bóc, vóc dáng mềm mại, gương mặt thanh tú. Người đời tả rằng cô có cặp lông mày “yên my” tựa như mây khói và đôi mắt “bán thụy phượng hoàng” mơ màng, say đắm.
Cô Phượng nổi tiếng với phong thái nền nã, tinh tế, lại giỏi “cầm, kỳ, thi, họa”, khiến bao công tử đất Hà thành si mê, mong được nên duyên. Tuy nhiên, số phận đưa đẩy khiến cô kết hôn với một người đàn ông giàu có nhưng vũ phu, nghiện rượu và cờ bạc, không hề có tình cảm với vợ.

Giữa nỗi bất hạnh ấy, cô gặp nhà báo Hoàng Tích Chu, một người đàn ông tài hoa đất Kinh Bắc. Họ yêu nhau say đắm và cô quyết định rời bỏ gia đình, vào Sài Gòn theo tiếng gọi con tim. Tuy nhiên, mối tình ấy cũng kết thúc trong dang dở khi hai người buộc phải chia tay.
Không còn nơi nương tựa, cô Phượng tự mình buôn bán mưu sinh. Về sau, cô có mối quan hệ với một người đàn ông giàu có tên Lưu. Khi bị vợ ông phát hiện và phong tỏa tài sản, cô lâm cảnh khốn cùng. Đau đớn vì đời nhiều éo le, cô tìm đến cửa chùa ở Hưng Yên, xin xuất gia.
Tại đây, một vị Tham tán say mê nhan sắc của cô, xin được cưới về làm vợ lẽ. Song những tháng ngày bình yên ngắn ngủi nhanh chóng kết thúc khi cô bị vợ cả của ông ngầm đầu độc, khiến hóa điên, lúc cười lúc khóc, thân tàn gầy rộc.

Vị Tham tán đành sai người đưa cô về Chợ Bờ (Hòa Bình), rồi sau đó cô trở lại Gia Lâm, sống nhờ bà hàng xóm cũ, trong người chỉ còn 15 đồng bạc. Khi bệnh tình trở nặng, cô được đưa vào nhà thương và một tuần sau, cô qua đời. Đám tang cô chỉ có một người tình cũ rủ lòng thương, khắc lên bia dòng chữ: “Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng”.
Cô Síu phố Cột Cờ
Cô Síu phố Cột Cờ (nay thuộc đường Điện Biên Phủ, phường Điện Biên xưa) là con gái của nhà văn Lý Ngọc Hưng, một nhân vật có tiếng trong giới văn hóa Hà Nội. Cô được ca ngợi là người tài sắc vẹn toàn nhất trong “Hà thành tứ mỹ”, mang vẻ đẹp cổ điển, dịu dàng, khuê các đặc trưng của người Hà thành xưa.

Cô Síu là hình mẫu được nhiều công tử, văn nhân, tài tử đương thời theo đuổi. Tuy nhiên, cuộc đời cô lại trở thành một ẩn số. Sau các biến động lớn của đất nước, đặc biệt là các mốc năm 1945 và 1954, cô hoàn toàn biến mất, không ai biết tung tích, cũng không có ghi chép về cuộc sống hay cái chết của cô. Chính điều đó càng khiến hình ảnh giai nhân phố cổ này thêm phần huyền thoại và tiếc nuối.
Cô Nga phố Hàng Gai
Là một trong những tuyệt sắc giai nhân của Hà thành thập niên 1930, cô Nga phố Hàng Gai - con phố tơ lụa sầm uất nhất bấy giờ được ngợi ca với nhan sắc “sắc nước hương trời”.
Cũng như cô Síu Cột Cờ, dù từng khiến bao người ngưỡng mộ, những thông tin về cuộc đời cô dần biến mất sau năm 1945. Những biến động thời cuộc và chiến tranh đã cuốn trôi đi dấu vết của người con gái được mệnh danh là “huyền thoại nhan sắc phố cổ”.
Ảnh: Sưu tầm
Tổng hợp
