ĐBQH: Miễn thuế nhập khẩu có thể khiến DN nhập linh kiện, thuê gia công rồi lắp ráp, triệt tiêu mục tiêu phát triển công nghiệp đường sắt
Việt Nam hiện chưa có ngành công nghiệp đường sắt hoàn chỉnh, ĐBQH lo ngại nếu cơ chế pháp lý không chặt chẽ, doanh nghiệp sẽ lách luật bằng cách nhập khẩu hoặc lắp ráp đơn thuần, đi ngược mục tiêu tự chủ công nghiệp.
Đã đặt hàng trong nước thì không được nhập khẩu, kể cả linh kiện
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, chiều 18/6, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Đường sắt (sửa đổi).
Đánh giá dự thảo Luật có nhiều điểm đột phá, đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội) bày tỏ đồng tình với quy định tại Điều 39, theo đó Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành danh mục các hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm công nghiệp đường sắt để giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng cho doanh nghiệp Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, đại biểu cũng cảnh báo một “kẽ hở” có thể làm xói mòn mục tiêu phát triển công nghiệp nội địa.
Cụ thể, tại khoản 9 Điều 5 dự thảo Luật có quy định miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa phục vụ ngành đường sắt mà trong nước chưa sản xuất được. Trong khi đó, thực tế cho thấy Việt Nam hiện gần như chưa hình thành được ngành công nghiệp đường sắt đúng nghĩa khi phần lớn các sản phẩm, thiết bị chuyên dụng đều phải nhập khẩu.
“Nếu quy định như vậy được giữ nguyên, rất có thể doanh nghiệp được Nhà nước đặt hàng sẽ chọn cách nhập khẩu hàng hóa nguyên chiếc, hoặc thuê nước ngoài sản xuất linh kiện rồi mang về nước lắp ráp, hợp thức hóa sản phẩm nội địa. Điều này không chỉ khiến thị trường đầu ra không được bảo hộ, mà còn triệt tiêu mục tiêu phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước,” ông Cường cảnh báo.
![]() |
Đại biểu Quốc hội TP Hà Nội - Hoàng Văn Cường phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn) |
Vì vậy, ông đề nghị cần quy định rõ trong Luật: không được nhập khẩu, kể cả linh kiện, để lắp ráp thành sản phẩm, dịch vụ thuộc danh mục đã giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng cho doanh nghiệp trong nước sản xuất.
Đồng quan điểm về việc cần hoàn thiện quy định, đại biểu Hoàng Minh Hiếu (Nghệ An) cho rằng, dự thảo Luật hiện còn thiên về đầu tư xây dựng đường sắt mà chưa quan tâm đúng mức đến các nội dung liên quan đến kinh doanh kết cấu hạ tầng đường sắt và kinh doanh vận tải đường sắt – những yếu tố sống còn để nâng cao hiệu quả khai thác, thu hút đầu tư và giảm áp lực lên ngân sách nhà nước.
Ông nhấn mạnh, quy định rõ ràng các hình thức giao, cho thuê, khai thác tài sản công trong lĩnh vực này, cùng cơ chế lựa chọn công khai, khuyến khích cạnh tranh sẽ tạo đà để khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào quản lý, vận hành, bảo trì, và phát triển hệ thống đường sắt quốc gia.
“Đây là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Luật cần luật hóa cụ thể, chứ không thể chỉ dừng lại ở định hướng chính sách,” đại biểu nhấn mạnh.
Từ thực tiễn khảo sát tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông, đại biểu phản ánh một nghịch lý: Hiệu quả kinh tế của tuyến đường là rất lớn, nhưng hạ tầng kết nối, nhất là bãi đỗ xe cá nhân và điểm trung chuyển lại vô cùng yếu kém, dẫn đến việc khai thác chưa đạt kỳ vọng.
Vì vậy, ông đề xuất bổ sung “bãi đỗ xe cá nhân” vào khái niệm “công trình hạ tầng kỹ thuật đấu nối” trong Luật. Theo đó, khái niệm này cần bao gồm: hệ thống cấp điện từ lưới công cộng; cấp thoát nước; đường bộ vào ga; bãi đỗ xe cá nhân; điểm trung chuyển giữa đường bộ và đường sắt. Đây là những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận của người dân và hiệu quả vận hành toàn tuyến.
![]() |
Đại biểu Phạm Văn Hòa đề xuất nên thay thế bằng các hình thức ưu đãi có giới hạn, chẳng hạn như hỗ trợ lãi suất vay, cơ chế chia sẻ rủi ro công – tư, thay vì bảo lãnh trực tiếp . Ảnh: Gia Hân. |
Nhà đầu tư sụp tiền, thì tiền đâu Nhà nước đảm bảo nguồn vốn này?
Một trong những điểm nhấn được nhiều đại biểu quan tâm là đề xuất chính sách ưu đãi vượt trội cho các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực đường sắt, vốn đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Theo dự thảo, có 9 nhóm chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước được đưa ra, trong đó đáng chú ý là đề xuất cho phép nhà đầu tư được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước hoặc được cấp bảo lãnh Chính phủ cho khoản vay khi tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đường sắt địa phương, hoặc mua sắm phương tiện, máy móc thiết bị phục vụ ngành đường sắt.
Đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) cho rằng việc ban hành các chính sách đặc biệt cho nhà đầu tư đường sắt là cần thiết và đúng hướng. Bởi đầu tư vào lĩnh vực này không chỉ cần vốn “khủng” mà còn phải có sự kiên trì dài hạn.
“Đường sắt có vốn đầu tư rất lớn, nhà đầu tư cần vốn để đầu tư, rất cần Nhà nước quan tâm thì mới yên tâm,” ông Hòa nhấn mạnh.
Tuy nhiên, vị đại biểu cũng bày tỏ lo ngại khi dự thảo đề cập đến việc Chính phủ có thể bảo lãnh tín dụng cho nhà đầu tư. Ông phân tích, trong trường hợp nhà đầu tư là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì việc bảo lãnh có thể chấp nhận được. Nhưng nếu nhà đầu tư là tư nhân, thì chính sách này cần được cân nhắc kỹ lưỡng, bởi nguy cơ rủi ro là rất lớn.
“Nhà đầu tư sụt tiền, thì tiền đâu Nhà nước đảm bảo nguồn vốn này?”, ông Hòa đặt vấn đề và cho rằng việc bảo lãnh vốn tín dụng, dù là nhằm mục tiêu thu hút đầu tư, nhưng nếu không có tiêu chí chặt chẽ, thì rủi ro sẽ không nhỏ, đặc biệt trong bối cảnh nợ công vẫn là vấn đề cần giám sát chặt chẽ.
“Ngay cả bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước còn nguy hiểm, huống chi là doanh nghiệp ngoài nhà nước,” ông Hòa nhấn mạnh, đồng thời đề xuất nên thay thế bằng các hình thức ưu đãi có giới hạn, chẳng hạn như hỗ trợ lãi suất vay, cơ chế chia sẻ rủi ro công – tư, thay vì bảo lãnh trực tiếp.
Một điểm khác trong dự thảo cũng được ông Hòa phân tích là cơ chế phân chia nguồn thu từ khai thác quỹ đất theo mô hình phát triển đô thị gắn với giao thông (TOD). Cụ thể, dự thảo quy định sau khi trừ chi phí liên quan, chính quyền cấp tỉnh được giữ lại 50% số tiền thu được từ khai thác đất quanh các nhà ga để đầu tư tiếp, còn lại nộp về ngân sách Trung ương. Riêng với đường sắt địa phương, địa phương được giữ lại 100%.
Tuy nhiên, theo đại biểu Phạm Văn Hòa, quy định như vậy vẫn chưa thể hiện rõ vai trò của nhà đầu tư, khi phải trực tiếp bỏ vốn và chấp nhận rủi ro ban đầu.
“Nếu quy định như vậy thì không thấy nhà đầu tư được hưởng gì. Trong khi họ là người trực tiếp bỏ tiền, khai phá hạ tầng, kích hoạt giá trị gia tăng từ đất. Cần phải có một cơ chế bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân,” ông nói.
Đại biểu Quốc hội: Không để 'lạm phát văn bản' trong thời gian sắp tới
Thuê chủ doanh nghiệp, chuyên gia làm công chức lãnh đạo: Đại biểu Quốc hội nói gì?