TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá về bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam quý 1 và dự báo cả năm 2023.
Về tăng trưởng GDP
Trong bối cảnh quốc tế khó khăn cùng với những thách thức nội tại như nêu trên, Việt Nam phải nỗ lực, quyết tâm nhiều hơn nữa mới đạt mức tăng trưởng khả quan hơn.
Với kết quả tăng trưởng khá thấp của quý 1, mức nền cao của quý 2 và cả năm 2022, dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2023 có thể đạt 5,5-6% (kịch bản cơ sở) , trong đó dự báo tăng trưởng các quý còn lại lần lượt là 7%; 6% và 6,5%.
Mặc dù việc Trung Quốc đã mở cửa từ tháng 1/2023 sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng, thương mại, đầu tư, du lịch ... toàn cầu và Việt Nam, song sẽ khó bù đắp được tác động tiêu cực từ môi trường quốc tế, cũng như sự sụt giảm đáng kể từ các đối tác lớn của Việt Nam.
Tuy nhiên, khả năng đạt được mức tăng trưởng cao hơn ( 6-6,5% ) vẫn có thể xảy ra nếu Việt Nam quyết tâm thực hiện một số giải pháp được kiến nghị dưới đây.
Về lạm phát
Áp lực lạm phát vẫn còn do cả yếu tố cầu kéo (lực cầu tiêu dùng khá cao, cung tiền và vòng quay tiền cải thiện hơn năm trước) và chi phí đẩy (giá dầu và giá hàng hóa, dịch vụ thế giới còn ở mức cao, nhất là khi Trung Quốc mở cửa trở lại làm tăng lực cầu).
Tuy nhiên, lạm phát của Việt Nam đang hạ nhiệt dần và dự báo CPI cả năm 2023 tăng khoảng 4-4,5% nhờ tác động cộng hưởng của các yếu tố tích cực cho kiềm chế lạm phát (giá cả và lạm phát toàn cầu đang hạ nhiệt, tỷ giá ổn định, lãi suất tiếp tục giảm, lực cầu còn yếu và các biện pháp kiểm soát lạm phát phối hợp đồng bộ, hiệu quả hơn).
Sáu kiến nghị đề ra
Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô năm 2023, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV có 6 kiến nghị sau:
Một là, về quan điểm, cách tiếp cận : Việt Nam cần chủ động sớm ‘chuyển trạng thái’ điều hành từ thắt chặt, thận trọng sang ‘thích ứng, nới lỏng phù hợp”.
Trong bối cảnh nhiều yếu tố cộng hưởng tích cực cho kiểm soát lạm phát như nêu trên, chúng ta không nên quá lo ngại về lạm phát năm nay mà quá thận trọng, kìm hãm tăng trưởng.
Hai là, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Chính phủ như nêu trên; cùng với việc tiếp tục bám sát tình hình; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế để có kịch bản ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (nhất là thị trường tài chính, bất động sản) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư và người dân. Các trung tâm kinh tế như TP.HCM, Hà Nội…cần phát huy tốt hơn vai trò đầu tàu, lan tỏa và kết nối của mình.
Ba là, đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; trong đó, quyết tâm đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh thủ tục hành chính trong đầu tư, xây dựng; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; tiếp tục chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn.
Bốn là, nâng cao hơn nữa hiệu quả trong phối hợp chính sách (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm đảm bảo thực hiện tốt các cân bằng: giữa kiểm soát lạm phát và tăng trưởng, giữa cân đối ngân sách và hỗ trợ doanh nghiệp, người dân.
Theo đó, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, thích ứng và nới lỏng phù hợp, đồng bộ các công cụ nhằm bình ổn tỷ giá, giảm lãi suất, điều hành tăng trưởng tín dụng, cho phép cơ cấu lại nợ ở mức độ phù hợp; phối hợp chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm…nhằm có thêm nguồn lực hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng…v.v.
Chính phủ sớm ban hành các chính sách cho phép giãn hoãn tiền thuế, tiền thuê đất, phí cho doanh nghiệp cùng với định hướng, giải pháp phối hợp hài hòa chính sách tài khóa, tiền tệ và ổn định tài chính, trong bối cảnh rủi ro tài chính quốc tế gia tăng.
Năm là, cần thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư thông qua: (i) khai thác tốt hơn các FTAs, nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại, mở rộng và đa dạng hóa đối tác, thị trường; (ii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải cách thể chế theo các cam kết hội nhập và Nghị quyết 01; (iii) triển khai hiệu quả các biện pháp kích cầu và du lịch trong nước; (iv) quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với doanh nghiệp hiện nay, nhất là về vấn đề pháp lý (đất đai, bất động sản, xây dựng), vốn (đặc biệt là TPDN, giải ngân đầu tư công…), triển khai hiệu quả các biện pháp kích cầu nội địa và du lịch (nhất là vấn đề visa, sản phẩm du lịch);
Cuối cùng , xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, tăng cường kiểm soát rủi ro hệ thống (đặc biệt là giữa thị trường chứng khoán, ngân hàng, BĐS); đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế, bao gồm cả tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách, xây dựng thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức.