Nước láng giềng của Việt Nam ghi nhận nợ hộ gia đình cao chưa từng có, người dân kiệt sức vì chi tiêu vượt thu nhập
IMF đánh giá nợ hộ gia đình cao đang khiến nước này phục hồi hậu COVID chậm hơn so với các nước trong khu vực.

Sompong giới thiệu bản thân bằng một cụm từ nghe khá lạ tai: “người tạo ra phép màu”. Xuất thân là kỹ sư được đào tạo bài bản, suốt hơn 30 năm, ông rong ruổi khắp Thái Lan để thu mua những món đồ gia dụng quý hiếm: từ bùa hộ mệnh, trang sức, đồ cổ, vàng thỏi cho đến các vị thuốc bắc khó tìm. Phần lớn những món đồ này đến từ những người đang mắc kẹt trong khó khăn tài chính, cần tiền mặt ngay. Công việc của ông đặc biệt phất lên trong ba năm trở lại đây.
Trong những chuyến đi, Sompong luôn mang theo 500.000 baht tiền mặt (khoảng 15.500 USD) cùng một người bạn am hiểu nghệ thuật làm việc tự do tại Sở Mỹ thuật. Các món đồ thu mua sẽ được ông bán lại thông qua đại lý cho giới sưu tầm, chủ yếu tại Bangkok và tỉnh Ratchaburi, cùng nhiều khu chợ tạm khác. Có thương vụ, ông chỉ bỏ ra 50 baht để mua hai viên thuốc bắc cổ của Trung Quốc và sau đó bán với giá 3.500 baht mỗi viên cho một quan chức cấp cao có gia đình đông con.
“Tôi mua bất cứ thứ gì miễn là thấy có thể lời được. Có khi tôi còn mua cả một căn nhà”, Sompong nói với Nikkei Asia.
Nhưng đằng sau sự “thuận gió xuôi buồm” của Sompong lại là bóng mây u ám đang bao phủ toàn bộ nền kinh tế Thái Lan mang tên nợ hộ gia đình.
Theo Trading Economics, đến cuối quý I/2025, tỷ lệ nợ hộ gia đình trên GDP của Thái Lan đã lên tới 88,2%, đứng thứ 7 thế giới. Trong khu vực châu Á, gánh nợ này thấp hơn Hàn Quốc nhưng cao hơn Hồng Kông, và vượt xa Malaysia, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Ấn Độ hay Indonesia.
Đáng nói, người dân Thái Lan vay không phải để đầu tư hay tích lũy tài sản, mà chủ yếu để trang trải các chi phí thiết yếu hằng ngày.
Bangkok Bank nhận định trong một báo cáo đầu năm: “Ở các nền kinh tế phát triển hơn, vay mượn chủ yếu để mua nhà, kinh doanh hay phục vụ đầu tư. Nhưng tại Thái Lan, phần lớn hộ vay để duy trì sinh hoạt cơ bản”. Điều này khiến nền kinh tế không được thúc đẩy bởi đầu tư, mà lại bị kéo chậm bởi nợ tiêu dùng phình to, tiềm ẩn rủi ro mất ổn định tài chính dài hạn.
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) cho rằng mức nợ hộ gia đình bền vững chỉ khoảng 80% GDP. Thái Lan đã vượt ngưỡng này từ năm 2012, sau các biện pháp kích cầu hậu thiên tai năm 2011. Tỷ lệ nợ hộ gia đình đạt đỉnh 94,6% trong năm 2021, khi đại dịch diễn ra, và giảm xuống rất chậm sau đó.
IMF đánh giá nợ hộ gia đình cao đang khiến Thái Lan phục hồi hậu COVID chậm hơn so với khu vực. Cơ chế xử lý nợ cá nhân rườm rà khiến người từng vỡ nợ khó quay lại hệ thống tín dụng chính thức, buộc họ tìm đến nguồn vay phi chính thức với lãi suất cắt cổ..
Khảo sát của Đại học Phòng Thương mại Thái Lan (UTCC) cho thấy mức nợ bình quân hộ gia đình đạt kỷ lục 606.378 baht vào năm 2024, tăng 8,4% so với năm trước. Đúng lúc đó, lãi suất điều hành duy trì ở mức cao trong giai đoạn 2024-2025, khiến vay mượn càng thêm đắt đỏ, sức mua bị bào mòn. Khi gánh nợ chiếm cả tương lai, hộ gia đình buộc phải cắt giảm mọi khoản chi không thiết yếu: hoãn mua xe, không thay đồ điện tử, giảm ăn ngoài; doanh nghiệp vì thế cũng chùn tay đầu tư vì cầu tiêu dùng yếu.

IMF dự báo tăng trưởng Thái Lan chỉ đạt 2% năm nay và 1,6% năm 2026, gần chót bảng ASEAN. Điều này đang tác động trực tiếp đến lòng tin của người dân. Nhà hàng khó trụ, thị trường nhà ở mới xây chạm mức trầm lắng nhất trong hai thập kỷ, còn doanh số ô tô chỉ nhích nhẹ sau cú giảm sâu 26% năm 2024. Ngay cả du lịch - trụ cột từng giúp Thái Lan thoát hiểm trong nhiều giai đoạn cũng không còn là phao cứu sinh khi lượng khách quốc tế 9 tháng đầu 2025 giảm 7,5% so với cùng kỳ.
“Cứ đi dọc phố là thấy số điện thoại cho vay dán khắp cột điện. Miễn có ô tô hay bất kỳ tài sản nào là người ta cho vay,” ông Nonarit Bisonyabut, chuyên gia TDRI, chia sẻ. Các tiệm cầm đồ thậm chí bày cả đồ nghề thợ và vật dụng nhà bếp chưa có người chuộc.
Krungsri Auto, công ty con của một trong 4 ngân hàng lớn nhất Thái Lan, cho vay nhanh tới 80% giá trị xe cũ. Vay ngân hàng thường chậm hơn do quy trình thẩm định và yêu cầu giấy chứng nhận quyền sở hữu kể cả với khoản vay cải tạo nhà.
Tân Thủ tướng Anutin Charnvirakul (người vừa nhậm chức tháng 9) xác định giảm nợ hộ gia đình là ưu tiên. Ông cam kết hỗ trợ lên đến 100.000 baht/người cho người gặp khó khi trả nợ.
Mới đây, Bộ trưởng Tài chính Ekniti Nithithanprapas thông báo các khoản nợ xấu dưới 100.000 baht sẽ được chuyển sang hai công ty quản lý tài sản (AMC) do nhà nước hậu thuẫn. Các AMC này sẽ đưa ra phương án trả nợ “dễ thở” hơn. Ngân hàng Trung ương Thái Lan sẽ phối hợp hoàn thiện chi tiết triển khai và trình nội các phê duyệt.
Ông Ekniti cho biết nguồn vốn hỗ trợ sẽ đến từ cơ chế cứu trợ tài chính của chính phủ, nhấn mạnh đây là biện pháp giúp người dân phục hồi bền vững, đồng thời vẫn đảm bảo kỷ luật tài khóa.
Trước đó, Thống đốc Vitai từng kêu gọi các AMC tăng gấp đôi quy mô mua nợ xấu để xử lý tình trạng nợ cao. Tính đến cuối tháng 6, khoảng 2,9% dư nợ của hệ thống ngân hàng Thái Lan là nợ xấu, mức được đánh giá là “cao và cần xử lý”.
Dữ liệu tổng hợp từ Trading Economics cập nhật tới quý III/2024 cho thấy mức nợ hộ gia đình của các nước tốt hay xấu còn phụ thuộc vào bối cảnh, trình độ phát triển và hệ thống tài chính của mỗi quốc gia.
Quay trở lại Việt Nam, báo cáo hồi đầu năm 2024 của ngân hàng HSBC cho biết trong giai đoạn 2013 - 2022, nợ của các hộ gia đình Việt Nam đã tăng mạnh từ 28% GDP lên 50% GDP.
Tỷ lệ nợ/GDP của Việt Nam không phải điều quá đáng lo ngại, bằng chứng là nhiều nền kinh tế vẫn hoạt động ổn định với mức nợ lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, khác với nhiều nước trên thế giới như Thụy Sĩ, Australia hay Hàn Quốc, thu nhập của người lao động Việt Nam thấp hơn, đồng nghĩa với các hộ gia đình sẽ khó có thể hấp thụ các cú sốc kinh tế hơn.
Câu chuyện từ Thái Lan là lời nhắc nhở quan trọng. Khi gánh nợ trở nên quá nặng, hộ gia đình sẽ thu hẹp chi tiêu, doanh nghiệp vì thế thiếu động lực đầu tư và nền kinh tế chậm lại. Nếu vòng tròn này lặp lại, việc trả nợ càng khó khăn hơn.
Do vậy, việc xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, thúc đẩy thu nhập người lao động và phát triển các kênh tín dụng bền vững sẽ là bài học để Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác nói chung tránh được vòng xoáy nợ, đồng thời tạo nền tảng chắc chắn để kinh tế bứt phá.
