Ông Nguyễn Đức Hiển: FDI chiếm 71% xuất khẩu, doanh nghiệp Việt mới dừng ở khâu gia công
Phó ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển cho biết, khu vực FDI hiện đóng góp tới 71% kim ngạch xuất khẩu, trong khi doanh nghiệp Việt chủ yếu mới tham gia ở các khâu gia công, giá trị gia tăng nội địa còn thấp.
Tại Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025 với chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu", TS Nguyễn Đức Hiển, Phó ban Chính sách, Chiến lược Trung ương chỉ rõ một thực trạng đáng suy ngẫm, đó là việc khu vực FDI đóng góp vào GDP khoảng 20% và trong nước đóng góp 80%. Tuy nhiên xuất khẩu của FDI chiếm tới 71,3%. FDI chi phối trong xuất khẩu các sản phẩm điện tử, máy tính và linh kiện, giày dép, dệt may.
“Đáng chú ý trong thời gian gần đây, dòng tiền chi trả sở hữu ra nước ngoài có xu hướng tăng mạnh”, ông Hiển nhấn mạnh.

Liên quan đến sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, Phó ban Kinh tế Trung ương cho hay tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam có kết nối tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thấp, chỉ có khoảng 18%, giảm 17 điểm phần trăm so với năm 2009 và chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp lớn. Chất lượng các ngành cung ứng nội địa được đánh giá là chưa cao. Riêng công nghiệp hỗ trợ mới đáp ứng được khoảng 10-15% nhu cầu trong nước.
Đánh giá yếu tố nội lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, qua nghiên cứu tính toán, ông Hiển chỉ rõ: hầu hết những ngành công nghiệp chế biến chế tạo tuy có chỉ số lan tỏa và độ nhạy cao nhưng kích thích đến nhập khẩu và lan tỏa đến giá trị tăng thêm thấp hơn mức bình quân chung. “Điều này phản ánh cơ bản nhiều ngành nghề dừng ở mức gia công”, ông Hiển nhận xét.
Hiện nay, trong 63 tiểu ngành của bảng phân ngành chỉ có 11 ngành là có chỉ số lan tỏa cao đến giá trị tăng thêm và lan tỏa thấp đến nhập khẩu.
Đánh giá tỷ lệ nội địa hóa các ngành nghề, hàm lượng giá trị gia tăng trong nước trong giá trị xuất khẩu của Việt Nam ở trong từng ngành cho thấy điện tử, máy vi tính là khoảng 28%, dệt may 36,3%, da giày 34% và gỗ là cao nhất khoảng 53,4%. Còn lại các lĩnh vực, tỷ lệ giá trị gia tăng trong nước trong giá trị xuất khẩu ở mức hầu hết là thấp.
Như vậy, "doanh nghiệp nội địa mới tham gia được vào các khâu trung gian và khi đối chiếu còn thấp hơn nhiều quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ", ông Hiển cho biết.
Trong khi đó, ngành công nghiệp công nghệ số được đánh giá có triển vọng khả quan hơn với sự gia tăng phát triển nhanh. Tuy nhiên, khi phân tích giá trị "Make in Vietnam", nội lực của doanh nghiệp ngành công nghệ số, hàm lượng giá trị của Việt Nam trong doanh thu công nghiệp công nghệ số có cải thiện nhưng còn thấp, dưới 40%.
Liên quan đến tỷ trọng giá trị gia tăng, nội địa hóa, hàm lượng gia tăng trong nước của các ngành cho thấy ngay cả ngành liên quan đến sản phẩm điện tử mới nội địa hóa đạt khoảng 15-18%. Hàm lượng giá trị gia tăng trong nước trong xuất khẩu chỉ ở mức thấp 27,8% và thấp xa hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh trong khu vực và thế giới
Theo ông Hiển “chúng ta xuất khẩu điện thoại có thể lớn về mặt giá trị nhưng giá trị gia tăng thu được thấp. Đây là điều đáng suy nghĩ. Hàm lượng giá trị gia tăng chỉ đạt khoảng 12%. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ của ngành công nghiệp chế tạo khoảng 18%”.
Khu vực doanh nghiệp trong nước thể hiện vai trò còn hạn chế trong xuất khẩu vì trên 90% giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào khu vực FDI trong lĩnh vực về công nghiệp công nghệ số. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi liên kết tập đoàn lớn cũng rất hạn chế.
Đối với ngành bán dẫn của Việt Nam đang có cải thiện tích cực. Vị thế ngành bán dẫn gia tăng với khoảng 2% giá trị xuất khẩu toàn cầu, là quốc gia xuất khẩu vi mạch bán dẫn đứng thứ 10 trên thế giới với giá trị xuất khẩu khoảng 25 tỷ USD.
Tuy nhiên Việt Nam chưa sản xuất được vi mạch bán dẫn, mà chỉ thuần túy dựa vào nhập khẩu vi mạch bán dẫn. Hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng vi mạch bán dẫn chủ yếu tập trung vào công đoạn lắp ráp và kiểm thử, chiếm khoảng 6% giá trị gia tăng ngành vi mạch bán dẫn.
Chia sẻ các động lực tăng trưởng mới, ông Hiển chỉ rõ các mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới như: kinh tế số, kinh tế dữ liệu, xanh bền vững, các ngành kinh tế mới như kinh tế tầm thấp, kinh tế cận biên, kinh tế không gian vũ trụ, kinh tế tuần hoàn.
Về kinh tế số, theo đánh giá từ nghiên cứu quốc tế và trong nước, đây là ngành có triển vọng mang lại đóng góp tăng trưởng đột phá của Việt Nam, dự báo có thể mang lại từ 90-200 tỷ USD vào năm 2030. Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ AI thành công có thể đóng góp 120-130 tỷ USD vào GDP…