Vingroup vướng tin đồn 'sắp phá sản' vì khoản nợ 800.000 tỷ đồng: Thực hư ra sao?
Nhiều tài khoản mạng xã hội thời gian gần đây đã liên tục đăng tải thông tin tập đoàn Vingroup 'sắp phá sản' vì khoản nợ 800.000 tỷ đồng.
Ngày 8/9/2025, Vingroup (VIC) cho biết đã tiến hành khởi kiện dân sự, trình báo cơ quan chức năng và gửi văn bản tới các Đại sứ quán về việc 68 tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đưa thông tin sai sự thật về tập đoàn trên mạng Internet.
Theo đó, 68 tổ chức, cá nhân bị khởi kiện và trình báo là chủ tài khoản của các trang thông tin và trang cá nhân có hành vi xuyên tạc, thông tin sai sự thật về Vingroup; bịa đặt về Chủ tịch tập đoàn - ông Phạm Nhật Vượng và một số lãnh đạo cao cấp khác của tập đoàn trên các nền tảng mạng xã hội như Tiktok, Facebook, Youtube…
Các thông tin sai sự thật tập trung vào 4 chủ đề chính bao gồm: tình hình tài chính tập đoàn; chất lượng và nguồn gốc xuất xứ sản phẩm; vấn đề pháp lý đối với sản phẩm và thông tin cá nhân lãnh đạo.
Đáng chú ý, một trong những vấn đề chính là việc đưa tin sai lệch về tình hình tài chính của Vingroup: "Các tài khoản mạng xã hội đưa thông tin tập đoàn sắp phá sản vì khoản nợ 800.000 tỷ đồng".
Thực tế, theo báo cáo tài chính hợp nhất của Vingroup được đăng tải công khai trên trang website tập đoàn, tổng nợ vay chỉ khoảng 283.000 tỷ đồng, hệ số nợ vay trên vốn chủ sở hữu chỉ khoảng 1,8 lần. Đây là chỉ số rất an toàn đối với các doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế và Việt Nam.
Các khoản “phải trả” còn lại phần lớn là doanh thu nhận trả trước từ khách hàng/đối tác và các khoản phải trả, phải thu khác phát sinh trong các hoạt động kinh doanh thông thường như bất cứ doanh nghiệp nào và hoàn toàn phù hợp với quy mô tập đoàn.

![]() |
Các khoản vay ngắn hạn ngân hàng của Vingroup ở thời điểm 30/6/2025 (Nguồn: Vingroup) |
![]() |
Cụ thể, theo BCTC bán niên 2025 của Vingroup, tại ngày 30/6, tổng tài sản hợp nhất của Vingroup đạt 958.235 tỷ đồng, trong khi nợ phải trả ở mức 799.543 tỷ đồng.
Trong cơ cấu nợ phải trả, dư nợ vay chỉ ở mức 278.939 tỷ đồng, bao gồm 122.630 tỷ đồng vay nợ thuê tài chính ngắn hạn và hơn 156.309 tỷ đồng vay nợ thuê tài chính dài hạn.
Về vay ngắn hạn, Vingroup chủ yếu vay các ngân hàng VPBank 19.895 tỷ đồng, Techcombank hơn 16.085 tỷ đồng, BIDV 7.256 tỷ đồng, HDBank 7.035 tỷ đồng, Vietcombank 6.486 tỷ đồng, SHB 3.687 tỷ đồng, VietinBank 2.063 tỷ đồng...
Về vay dài hạn, Vingroup chủ yếu vay các ngân hàng BIDV gần 4.849 tỷ đồng, Vietcombank hơn 4.806 tỷ đồng, VietinBank 4.635 tỷ đồng cùng khoản vay từ một số đối tác doanh nghiệp khoảng 29.400 tỷ đồng.
Các khoản còn lại trong cơ cấu nợ phải trả bao gồm khoản người mua trả tiền trước 109.878 tỷ đồng, về bản chất là nguồn doanh thu hình thành trong tương lai khi sản phẩm được bàn giao.
Ngoài ra, Vingroup còn ghi nhận 243.410 tỷ đồng tiền cọc từ các đối tác theo hợp đồng hợp tác kinh doanh cùng phát triển dự án. Các nghĩa vụ nợ khác bao gồm thuế phí, phải trả người lao động...
Bên cạnh đó, nhóm nợ phải trả bao gồm các khoản mục như phải trả người bán ngắn hạn (46.254 tỷ đồng), chi phí phải trả (66.293 tỷ đồng), doanh thu chưa thực hiện (10.477 tỷ đồng), thuế và các khoản phải nộp Nhà nước (17.677 tỷ đồng)… Các khoản mục này cân đối với các khoản phải thu ngắn hạn 254.128 tỷ đồng.
Mới đây, báo cáo Vietcap cho biết, cơ cấu nợ của Vingroup phần lớn sẽ đáo hạn trong vòng 3 năm tới. Theo đánh giá của đơn vị này, ngoại trừ VinFast, hầu hết các công ty con của VIC đều có khả năng tự chủ về dòng tiền để đáp ứng nghĩa vụ nợ cũng như duy trì hoạt động kinh doanh.
Cụ thể, Vinhomes hiện sở hữu nguồn dòng tiền dồi dào với giá trị hợp đồng bán hàng chưa ghi nhận tính đến cuối quý II/2025 lên tới 138.000 tỷ đồng. Ngoài ra, doanh số bán hàng mới dự kiến đạt 131.000 tỷ đồng trong năm 2025, 145.000 tỷ đồng năm 2026 và 156.000 tỷ đồng năm 2027.
Đối với Vinpearl, Vinmec và Vinschool, kết quả kinh doanh được kỳ vọng tiếp tục cải thiện nhờ hưởng lợi từ sự gia tăng nhanh của tầng lớp trung lưu cùng biên lợi nhuận ngày càng tích cực. Đặc biệt, kế hoạch niêm yết Vinpearl trên sàn HoSE được cho là sẽ mở ra thêm cơ hội huy động vốn trong tương lai.