Có 1 triệu doanh nghiệp nhưng chỉ 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu
Dù chuỗi cung ứng toàn cầu là kỳ vọng lớn của doanh nghiệp nhưng TS Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Econodmica Việt Nam cũng thẳng thắn nêu thực tế trong gần 1 triệu doanh nghiệp chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tức chỉ chiếm 0,005%.
Đa số doanh nghiệp Việt là doanh nghiệp nhỏ lẻ
Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết mặc dù chuỗi cung ứng đã dần được tái cấu trúc, nhưng thực tế đa số các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, nước ta hiện nay có khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng.
Đa số doanh nghiệp hiện nay chỉ là doanh nghiệp nhỏ và vừa. |
Dẫn số liệu từ Tổng cục Thống kê, TS Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, cho hay trong gần 1 triệu doanh nghiệp chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tức chỉ chiếm 0,005%.
“Và theo số liệu của Cục Công nghiệp thuộc Bộ Công Thương, trong 5.000 doanh nghiệp này chỉ có 100 doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp 1. Sau gần 40 năm phát triển doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam thực sự trở thành một phần của chuỗi cung ứng toàn cầu là rất thấp”, TS Bình nhận định.
Về nguyên nhân, TS Bình cho biết nghiên cứu của Economica Vietnam đã chỉ ra một số khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt đang gặp phải khi gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu. Đó là việc đáp ứng những yêu cầu hết sức khắt khe, yêu cầu cao về phương diện kỹ thuật, quản trị và thời gian giao hàng của doanh nghiệp đầu chuỗi.
“Họ yêu cầu doanh nghiệp Việt phải thiết lập hệ thống công nghệ đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, quản trị doanh nghiệp, lao động, điều kiện về vệ sinh an toàn lao động. Những yêu cầu này không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được”, ông Bình nêu thực tế .
Một điểm nghẽn nữa là yêu cầu về sản xuất xanh từ thị trường quốc tế ngày càng cao, buộc các quốc gia khác khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu phải đẩy nhanh quá trình xanh hoá sản xuất.
Để đáp ứng những yêu cầu trên, doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều, trong khi đầu tư đòi hỏi nguồn vốn rất lớn và phải liên tục đáp ứng yêu cầu của đầu chuỗi.
Hơn nữa, để bỏ ra số tiền vốn lớn, doanh nghiệp phải có niềm tin rất lớn vào môi trường kinh doanh, khi họ đầu tư sẽ là an toàn, sẽ không có quá nhiều sự thay đổi về cơ chế chính sách, không có sự thay đổi về quy định pháp luật.
Bổ sung thêm lý do, TS Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế thuộc Ban Kinh tế Trung ương, thách thức lớn nhất khi tham gia chuỗi là nguồn nhân lực của doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang thiếu lao động có kỹ năng tay nghề và cả lao động phổ thông.
Ngoài ra, thách thức trong kết nối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Yêu cầu của doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp địa phương là tính ổn định và chất lượng cao. Doanh nghiệp trong nước muốn tham gia và kết nối vào chuỗi cung ứng cần đầu tư vào con người, công nghệ.
>>Doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu: Không dễ!
Đổi mới tư duy hỗ trợ doanh nghiệp
Để doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, theo ông Bình, cần hoàn thiện thể chế, chính sách; thủ tục hành chính, thủ tục xuất nhập khẩu, kiểm tra chuyên ngành cần phải được cải cách, cải thiện mạnh mẽ hơn nữa để tạo thuận lợi hoá thương mại hơn, từ đó việc gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu mới dễ dàng hơn trước đây.
Bên cạnh đó, cần có hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực công nghệ, doanh nghiệp cần trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trung tâm khảo thí… để đáp ứng yêu cầu về ISO. |
Bên cạnh đó, cần có hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực công nghệ. Họ cần trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trung tâm khảo thí… để đáp ứng yêu cầu về ISO, tiêu chuẩn chất lượng. Hiện nay những hệ sinh thái vẫn chưa có sự hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp, đặc biệt những ngành có nhu cầu về vốn lớn như năng lượng tái tạo, giao thông xanh…
Ngoài ra, cần phải đổi mới cách thức tiếp cận hỗ trợ doanh nghiệp. Ông Bình cho rằng, trong số các chính sách hỗ trợ của Nhà nước hiện nay, rất ít trong số này đã phát huy hiệu quả. Đổi mới thể chế, quy định pháp luật giúp cho con đường gia nhập chuỗi cung ứng thuận lợi hơn, rộng mở hơn. Do đó, tư duy hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần đổi mới, bảo đảm hỗ trợ doanh nghiệp một cách trọng tâm, trọng điểm hơn nữa.
Hiện nay, khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi trở lại và đặc biệt là cơ hội mới bắt đầu xuất hiện, có sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu, điều này yêu cầu các doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực nội tại, phải vươn ra thị trường quốc tế và cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp nước ngoài theo đúng nguyên tắc thị trường.
Đại diện Economica Vietnam cho rằng việc gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực tự thân của cộng đồng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nỗ lực này sẽ thuận lợi, dễ dàng hơn rất nhiều nếu các điều kiện về mặt thể chế, môi trường kinh doanh, quy định pháp luật dễ dàng hơn, thuận lợi hơn cho quá trình nỗ lực tự thân của doanh nghiệp.
Chính sách hỗ trợ cần tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm, có giá trị gia tăng cao, tương lai của thế giới và cũng là tương lai của kinh tế Việt Nam trong thập kỷ sắp tới, như công nghiệp bán dẫn, chip, năng lượng xanh, y tế, chăm sóc sức khoẻ….
Trong bối cảnh hiện nay, chính sách hỗ trợ phải theo hướng: trả lại không gian cho thị trường thông qua các biện pháp hỗ trợ. Nhiều biện pháp hỗ trợ hiện nay theo hơi hướng cho không, bao cấp, điều đó rất cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, tuy nhiên, trong thời điểm này cần điều chỉnh lại cách thức này.
Những chính sách mang tính bao cấp, hỗ trợ miễn giảm trong thời gian quá dài cũng nên thu hẹp dần quy mô hay về cường độ, để nền kinh tế vận hành theo đúng cơ chế thị trường, theo đúng quy luật vốn có của nó.
Từ đó, doanh nghiệp cũng phải tuân theo quy luật thị trường, giúp cho thị trường phân bổ được nguồn lực trên nền kinh tế một cách tối ưu hơn, hiệu quả hơn. Cũng chính điều này sẽ giúp các doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn.