Thuế đối ứng của Mỹ tạo cú hích, dệt may Việt Nam 'soán ngôi' Trung Quốc tại thị trường lớn nhất thế giới
Đến tháng 7/2025, xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Mỹ đạt 9,5 tỷ USD, trong khi Trung Quốc chỉ đạt 7 tỷ USD. Điều này giúp Việt Nam chiếm 20,7% thị phần, cao hơn hẳn 15% của Trung Quốc.
Việt Nam chiếm 20,7% thị phần, Trung Quốc tụt còn 15%
Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 3/2025 với chủ đề “Động lực nào cho tăng trưởng GDP 8,3–8,5%”, ngày 26/9, ông Trần Như Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), Chủ tịch HĐQT Công ty CP Dệt may Đầu tư Thương mại Thành Công, cho biết, tính đến hết tháng 8/2025, xuất khẩu dệt may đạt 30,7 tỷ USD trên kế hoạch năm là 48 tỷ USD. Để hoàn thành mục tiêu, từ nay đến cuối năm, ngành cần duy trì tối thiểu 4 tỷ USD/tháng.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu dệt may tăng trưởng 10% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sang tháng 8, mức tăng chỉ còn 7%. Nguyên nhân chính là do chính sách thuế mới của Mỹ.
“Ngay sau khi chính sách thuế có hiệu lực từ ngày 1/4, khách hàng Mỹ liên tục thúc giục các nhà cung cấp Việt Nam đẩy nhanh giao hàng để kịp hưởng mức thuế cũ. Khi đơn hàng dồn dập xuất kho, lượng hàng tồn tại Mỹ tăng cao, kéo theo đà nhập khẩu chững lại từ quý III”, ông Tùng phân tích.
Dù vậy, vị Phó Chủ tịch VITAS khẳng định không cần quá lo ngại. Bởi lẽ, trong phân khúc may mặc như quần áo, áo thun, sơ mi, quần jeans..., Việt Nam đã chính thức vượt Trung Quốc về thị phần tại Mỹ.
Cụ thể, theo số liệu cập nhật đến tháng 7/2025, xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Mỹ đạt 9,5 tỷ USD, trong khi Trung Quốc chỉ đạt 7 tỷ USD. Điều này giúp Việt Nam chiếm 20,7% thị phần, cao hơn hẳn 15% của Trung Quốc.
Nếu tính tổng cả ngành dệt may bao gồm cả vải, sợi, nguyên phụ liệu, 7 tháng 2025, Việt Nam đạt 10 tỷ USD, kém Trung Quốc không xa (11 tỷ USD). Đặc biệt, so với cùng kỳ 2024, Trung Quốc giảm 20% xuất khẩu sang Mỹ, trong khi Việt Nam tăng 17%, cho thấy xu hướng dịch chuyển đơn hàng khỏi Trung Quốc ngày càng rõ rệt.
“Khoảng cách đang thu hẹp rất nhanh. Đây là tín hiệu tích cực, chứng tỏ Việt Nam có thể tận dụng lợi thế từ chính sách thuế đối ứng để tăng tốc”, ông Tùng nhấn mạnh.

Cần chính sách hỗ trợ để duy trì lợi thế
Mặc dù hưởng lợi trước mắt, ngành dệt may Việt Nam vẫn đối diện với 3 sức ép dài hạn.
Thứ nhất, chuyển đổi xanh: Hiện chỉ khoảng 20–25% doanh nghiệp trong ngành đủ khả năng đáp ứng yêu cầu về sản xuất xanh (đầu tư năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh khối thay than đá...). Phần lớn doanh nghiệp còn lại gặp khó do hạn chế tài chính và năng lực quản trị.
Thứ hai, chuyển đổi số và truy xuất nguồn gốc: Hải quan Mỹ đang siết chặt kiểm tra xuất xứ. Nếu sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, thuế suất khoảng 20%. Nhưng nếu bị xác định là hàng trung chuyển từ Trung Quốc qua Việt Nam, mức thuế có thể lên đến 40%. Do đó, doanh nghiệp buộc phải đầu tư hệ thống số hóa quản trị để minh bạch hóa nguồn gốc nguyên liệu.
Thứ ba, tự chủ nguyên liệu: Việt Nam đã ký 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó nhiều FTA quy định “từ sợi trở đi” hoặc “từ vải trở đi” phải sản xuất trong nước mới được hưởng ưu đãi thuế. Tuy nhiên, ngành dệt may hiện vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên liệu từ Trung Quốc.
“Nếu không chủ động được sợi, vải trong nước, chúng ta không thể tận dụng ưu đãi từ CPTPP hay EVFTA. Khi đó, lợi thế thuế quan coi như mất đi”, ông Tùng nhận định.
Để ngành dệt may giữ vững đà tăng trưởng và củng cố vị thế tại Mỹ, ông Trần Như Tùng kiến nghị Chính phủ cần hỗ trợ phát triển công nghiệp nguyên liệu trong nước, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Đồng thời, đàm phán quốc tế để có cơ chế thuế phân biệt rõ giữa hàng sản xuất tại Việt Nam và hàng trung chuyển, từ đó, tạo cơ chế tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.
“Chúng ta đã đạt kim ngạch hàng chục tỷ USD, nhưng giá trị gia tăng thực sự chưa cao. Muốn bền vững, Việt Nam phải nắm được khâu nguyên liệu và nâng chuẩn sản xuất để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của các thị trường lớn”, ông Tùng nhấn mạnh.