Tỉnh duy nhất ở Việt Nam có 2 Di sản văn hóa thế giới, quê hương của 3 nhân vật nổi tiếng lẫy lừng, tên được đặt cho tên đường, trường học khắp cả nước
Quảng Nam không chỉ được biết đến là vùng đất giàu truyền thống văn hóa mà còn là tỉnh duy nhất ở Việt Nam hiện nay có đến hai Di sản văn hoá thế giới được UNESCO công nhận.
Quảng Nam thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ. Tỉnh có diện tích 10.574 km² lớn thứ 6 cả nước. Tính đến năm 2022, dân số của tỉnh đạt 1.519.400 người, mật độ 144 người/km². Đây cũng là địa phương duy nhất tại Việt Nam có hai Di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận là Phố cổ Hội An và Khu di tích Mỹ Sơn.

Không chỉ nổi tiếng về văn hóa vật thể, Quảng Nam còn được mệnh danh là “vùng đất khoa bảng”, nơi sản sinh nhiều bậc hiền tài làm rạng danh non sông, trong đó tiêu biểu là ba nhân vật lịch sử lẫy lừng: Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp. Tên tuổi của họ hiện được đặt cho nhiều con đường, trường học trên khắp cả nước.
Trần Quý Cáp (1870 - 1908): Chí sĩ tiên phong phong trào Duy Tân
Trần Quý Cáp, tên thật là Trần Nghị, tự Dã Hàng, Thích Phu, hiệu Thai Xuyên. Ông sinh năm 1870 tại làng Bất Nhị, xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, xuất thân trong một gia đình nông dân.
Từ nhỏ ông sớm bộc lộ tư chất thông minh nhưng phải đến năm 1904 mới đỗ Tiến sĩ. Dù được đào tạo trong môi trường Nho học, Trần Quý Cáp sớm tiếp thu tư tưởng canh tân, mong muốn cải thiện dân trí và đổi mới xã hội. Ông là một trong những người khởi xướng phong trào Duy Tân tại Quảng Nam cùng với Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và các đồng chí chí hướng.

Năm 1906, theo đề nghị của Tổng đốc Nam Ngãi Hồ Đệ, ông được bổ làm Giáo thụ phủ Thăng Bình. Trong thời gian đảm nhận cương vị này, ông đã mời những người thông thạo chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp đến giảng dạy trong trường, thúc đẩy mô hình trường học mới.
Các hoạt động giảng dạy tư tưởng duy tân, diễn thuyết và mở trường tân học của ông khiến giới chức địa phương và chính quyền Pháp lo ngại. Sau đó, ông bị điều chuyển ra phủ Ninh Hòa.
Khi phong trào chống sưu thuế và đi phu nổ ra tại huyện Đại Lộc, ông gửi thư trao đổi với bạn hữu ở quê nhà. Ngay sau đó, chính quyền thực dân đã bắt giữ ông và buộc tội “mưu phản đại nghịch”.
Ngày 17/5/1908, ông bị xử chém tại bãi sông Cạn. Trên đường ra pháp trường, ông vẫn bình thản, ung dung như những lần giảng sách thể hiện cốt cách kiên trung, bất khuất của một chí sĩ yêu nước suốt đời tận hiến vì nghĩa lớn.
Phan Châu Trinh (1872 - 1926): Nhà tư tưởng cải cách, người mở đường cho phong trào Duy Tân
Phan Châu Trinh, tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, Hy Mã, sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay là huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Ông nổi tiếng thông minh, đỗ Cử nhân năm 1900 và Phó bảng năm 1901. Năm 1903, ông được bổ làm Thừa biện bộ Lễ.
Thời gian làm việc tại kinh đô Huế là giai đoạn bước ngoặt đối với tư tưởng cứu nước của ông. Tại đây, ông tiếp cận các tác phẩm tân thư của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng các trước tác của Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ, từ đó nhận ra con đường mới cho dân tộc.
Từ quan, ông cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp phát động phong trào Duy Tân ở Quảng Nam, với ba mục tiêu lớn: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

Năm 1908, khi phong trào đòi giảm thuế lan rộng khắp Trung Kỳ, ông bị Pháp bắt giam và đày ra Côn Đảo. Nhờ sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, năm 1911 ông được trả tự do và sang Pháp tiếp tục hoạt động.
Tại Pháp, ông viết nhiều tác phẩm phản ánh tình hình chính trị, trong đó có Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký và Đông Dương chính trị luận, phê phán chính sách cai trị thực dân.
Năm 1925, ông trở về nước và diễn thuyết tại nhà Hội Thanh niên Sài Gòn vào tháng 11 cùng năm. Ngày 24/3/1926, ông qua đời, thọ 54 tuổi. Tên tuổi ông được ghi nhớ với nhiều công trình tưởng niệm, trong đó có Đại học Phan Châu Trinh tại Quảng Nam.
Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947): Tấm gương chí sĩ kiên trung, suốt đời vì dân vì nước
Huỳnh Thúc Kháng, tên khai sinh là Huỳnh Hanh. Ông sinh ngày 1/10/1876 tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam). Ông đỗ đầu kỳ thi Hương năm 1900 và đỗ Tiến sĩ kỳ thi Hội năm 1904 trở thành biểu tượng khoa bảng xứ Quảng thời bấy giờ.
Dù đạt học vị cao, ông không ra làm quan, mà cùng các chí sĩ như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Lương Văn Can phát động phong trào Duy Tân nhằm canh tân đất nước. Vì tham gia phong trào này và ủng hộ cuộc đấu tranh chống thuế năm 1908, ông bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo suốt 13 năm (1908 – 1921).
Trở về sau thời gian lưu đày, ông tiếp tục hoạt động chính trị và xã hội. Năm 1926, ông được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Từ năm 1927, ông sáng lập và làm chủ bút báo Tiếng Dân tại Huế trong suốt 16 năm (1927–1943), góp phần thúc đẩy tinh thần dân tộc và khai mở tư tưởng tiến bộ.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông tham gia Chính phủ Liên hiệp với cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Năm 1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, ông được giao quyền điều hành Chính phủ.
Tháng 12/1946, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm Đặc phái viên của Chính phủ đi kinh lý miền Trung, kêu gọi nhân dân ủng hộ cuộc kháng chiến.
Do tuổi cao và bệnh nặng, ông từ trần tại Quảng Ngãi ngày 21/4/1947. Ngày 29/4, Chính phủ tổ chức lễ truy điệu theo nghi thức Quốc tang. Trong ngày này, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nêu cao tấm gương yêu nước và nhân cách lớn của ông.
Với những cống hiến to lớn, ngày 27/12/2012, Chủ tịch nước đã ký quyết định truy tặng Huân chương Sao Vàng phần thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng.