Tỉnh duy nhất Việt Nam được mệnh danh là 'quê vua, đất chúa': Sản sinh ra 64 vị vua chúa, có long mạch hiếm có nhiều lần bị trấn yểm

15-02-2024 16:05|Quỳnh Như

Đây là quê hương của các triều đại phong kiến gồm nhà Tiền Lê, nhà Hậu Lê, nhà Hồ, nhà Nguyễn và 2 đời chúa là chúa Trịnh, chúa Nguyễn.

Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý muốn nói vùng đất Thanh Hóa là nơi phát tích của nhiều đời vua, còn Nghệ An là nơi sản sinh ra các bậc anh hùng hào kiệt, công thần của đất nước. Hay có người ví von, Thanh Hóa là đất “đế vương chung hội” vì đa số vua, chúa đều xuất thân từ nơi đây.

Nơi duy nhất được mệnh danh là "đất vua"

Dựa trên các tài liệu lịch sử, Thanh Hóa quả thực là “cái nôi” sản sinh ra nhiều vua, chúa nhất Việt Nam với 4 triều vua, gồm: nhà Tiền Lê (3 người), nhà Hồ (2 người), nhà Hậu Lê (26 người) và nhà Nguyễn (13 người); bên cạnh đó, còn 2 dòng là chúa Trịnh và chúa Nguyễn.

Thanh Hóa là

Thanh Hóa là "cái nôi" sản sinh ra nhiều bậc vua chúa nhất Việt Nam. Ảnh minh họa

Thanh Hóa vào thời Bắc thuộc được gọi là Cửu Chân, sau này là Ái Châu. Đến thời nhà Lý được đổi làm phủ Thanh Hóa, tên gọi Thanh Hóa từ đó mà được biết đến.

Mảnh đất địa linh nhân kiệt này được nhận xét là linh thiêng bậc nhất Việt Nam. Nhiều người còn cho rằng địa phương này ẩn chứa long mạch, hội tụ linh khí nên mới là nơi phát tích của nhiều vua, chúa như vậy. Đến nay vẫn chưa có câu trả lời cụ thể cho lý do vì sao Thanh Hóa lại sản sinh ra nhiều bậc đế vương, anh hùng hào kiệt như thế.

Ngoài câu nói được lưu truyền là “vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ” thì trong dân gian còn xuất hiện dị bản “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần” hay “Thanh thế, Nghệ thần” cũng nói về 2 xứ lắm vua nhiều chúa này.

Núi Nưa (Thanh Hóa) được sử sách ghi nhận là

Núi Nưa (Thanh Hóa) được sử sách ghi nhận là "huyệt đạo" linh thiêng bậc nhất Việt Nam

Theo phong thủy địa lý, Thanh Hóa có hình thế đắc địa như một vương quốc riêng, thuận lợi khi vừa có rừng, vừa có biển, lại có cả sông và rừng già. Cũng vì là đất linh thiêng, cho nên không phải ngẫu nhiên mà nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm các huyệt mạch đế vương.

Điều này được chứng thực bởi Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, nguyên văn như sau: “Trần Thái Tông niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe kênh, mở đường ngang lối dọc không kể xiết”. Nhưng việc làm ấy cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi ngay sau nhà Trần thì nhà Hồ, nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn đều phát ra từ xứ Thanh.

Bên cạnh đó còn vô số truyền thuyết gắn liền với đất Thanh Hóa trong quá trình các triều đại thành lập. Chung quy lại, mảnh đất này vẫn được xem là “đất vua, quê chúa” độc nhất vô nhị ở nước ta.

Quê hương của 4 triều vua, 2 dòng chúa nước Việt

Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh. Ảnh minh họa

Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh. Ảnh minh họa

Năm Mậu Thìn (248), Bà Triệu đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị/ Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ/ Đối mặt vua bà khó). Dù chưa lập triều nghi nhưng ngay quân Ngô đã tôn xưng người con gái của chiến tuyến bên kia làm vua rồi.

Tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc Chính, Lý Tiến của nhà Đường, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905).

Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để thống nhất lòng dân chống quân xâm lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980-1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba đời gồm Lê Đại Hành (980-1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005-1009).

Hơn 500 năm sau, cũng năm Canh Thìn (1400), ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vị nhà Trần, lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400-1407).

Năm 1428, Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Ông là người Thanh Hóa. Ảnh minh họa

Năm 1428, Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Ông là người Thanh Hóa. Ảnh minh họa

Thời gian 1428-1789 là thời kỳ tồn tại của nhà Hậu Lê gồm giai đoạn Lê sơ (1428-1527) và Lê Trung hưng (1533-1789). Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh (1416-1428). Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông (1533-1548) và kết thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786-1789).

Triều đại cuối cùng của Việt Nam là nhà Nguyễn (1802-1945) do Nguyễn Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay), đất Thanh Hóa. Nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua, bắt đầu từ vua Gia Long (1802-1820) cho đến vua Bảo Đại (1926-1945).

Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh.

Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI-XVIII do Trịnh Kiểm lập nên. Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy tiếng là phò giúp nhà Lê nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên. Vua Lê dạo Trung hưng chỉ có hư vị mà thôi. Dòng dõi chúa Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545-1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng (1786-1787), kéo dài 11 đời thì bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn.

Về chúa Nguyễn, vào năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim, người Gia Miêu ngoại trang. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng (1558-1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777), có công lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau...

>> Nơi thờ vị vua đầu tiên liên thủ các nước Đông Nam Á chống ngoại bang, được mệnh danh là ông 'vua đen' duy nhất trong lịch sử Việt Nam

Vị vua duy nhất trong lịch sử Việt Nam lên ngôi 2 lần, có 4 người con liên tiếp đều lên ngôi vua

Nhà thơ lẫy lừng 26 tuổi đã giữ chức Bộ trưởng, là đại diện trực tiếp vào Huế tiếp nhận lễ thoái vị của vua Bảo Đại

Theo Chất lượng và Cuộc sống
https://chatluongvacuocsong.vn/tinh-duy-nhat-viet-nam-duoc-menh-danh-la-que-vua-dat-chua-san-sinh-ra-64-vi-vua-chua-co-long-mach-hiem-co-nhieu-lan-bi-tran-yem-d116219.html
Bài liên quan
Đừng bỏ lỡ
    Đặc sắc
    Nổi bật Người quan sát
    Tỉnh duy nhất Việt Nam được mệnh danh là 'quê vua, đất chúa': Sản sinh ra 64 vị vua chúa, có long mạch hiếm có nhiều lần bị trấn yểm
    POWERED BY ONECMS & INTECH