Vĩ mô

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3

baochinhphu.vn 20/12/2025 11:00

Sáng 20/12 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3 với “Phát triển kinh tế số, xã hội số toàn diện, bao trùm - Đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026 - 2030”.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 1.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tới dự và chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3 tổ chức sáng 20/12 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Cùng dự và chủ trì Diễn đàn có Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Đỗ Thanh Bình.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 2.
Thủ tướng và lãnh đạo các bộ, ngành dự Diễn đàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 3.
Các Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn, Nguyễn Chí Dũng dự Diễn đàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Diễn đàn có sự tham dự của đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương; đại diện cộng đồng doanh nghiệp công nghệ, các hội, hiệp hội nghề nghiệp; các viện nghiên cứu, trường đại học, chuyên gia, nhà khoa học; cùng sự hiện diện của cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và các tổ chức quốc tế.

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, thay mặt Tổng Bí thư Tô Lâm và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhiệt liệt chào mừng và chuyển lời thăm hỏi, chúc mừng tốt đẹp đến các đại biểu.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 4.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc Diễn đàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng đánh giá Diễn đàn có ý nghĩa quan trọng chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ XI; đồng thời định hình những phương hướng mới, những nhiệm vụ mới, những mục tiêu mới để phát triển kinh tế số, xã hội số - đây là hai phạm trù, hai lĩnh vực "tuy hai mà một, tuy một mà hai", lĩnh vực này phát triển được thì sẽ thúc đẩy lĩnh vực kia, lĩnh vực này không phát triển được thì sẽ kìm hãm lĩnh vực kia và ngược lại.

Thủ tướng nêu rõ, chúng ta đã xác định phát triển kinh tế số nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh, xây dựng xã hội số bao trùm, nhân văn, nâng cao chất lượng sống, bình đẳng tiếp cận dịch vụ, thu hẹp khoảng cách phát triển, phát huy bản sắc văn hóa trên môi trường số.

Trên tinh thần "kinh tế số là động lực, xã hội số là nền tảng, con người làm trung tâm", thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm và đề ra nhiều chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế số và xã hội số. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định rất rõ là phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế số, từng bước phát triền kinh tế số, xã hội số.

Tháng 12/2024, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã xác định đây là một đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Như vậy, sau một nhiệm kỳ, nhận thức của chúng ta về vai trò, vị trí của kinh tế số, xã hội số đã có thay đổi, Thủ tướng nhận định.

Theo Thủ tướng, mục tiêu của diễn đàn không dừng lại ở việc tổng kết, đánh giá mà còn thảo luận, phân tích và đề xuất các giải pháp đột phá phát triển kinh tế số, xã hội số trong những năm tới.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 5.
Thủ tướng và các đại biểu tham quan trưng bày các sản phẩm công nghệ tại Diễn đàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 6.
Thủ tướng và các đại biểu tham quan trưng bày các sản phẩm công nghệ tại Diễn đàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng đề nghị các đại biểu đánh giá thẳng thắn, khách quan, minh chứng bằng số liệu cụ thể về thực trạng phát triển kinh tế số, xã hội số của Việt Nam thời gian vừa qua, những kết quả nổi bật là gì, chúng ta đang đứng ở đâu trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.

Cùng với đó, chia sẻ những kinh nghiệm hay, bài học quý, cách làm sáng tạo trong phát triển kinh tế số, xã hội số, đặc biệt là các bài học từ các tập đoàn công nghệ lớn, các địa phương đi đầu để chúng ta nhân rộng các mô hình thành công.

Đồng thời, nhận diện rõ những tồn tại, hạn chế, yếu kém, vướng mắc, rào cản, điểm nghẽn, nhất là về thể chế và cơ chế chính sách để triển khai, phát triển các dịch vụ số xuyên biên giới, thuế, sở hữu trí tuệ, đảm bảo an ninh mạng….

Đặc biệt, xác định rõ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế số, xã hội số trong thời gian tới; để kinh tế số thực sự thấm sâu vào mọi người, mọi nhà, mọi ngõ ngách của nền kinh tế, trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, môi trường, phòng chống thiên tai, dịch bệnh…

"Làm thế nào để khơi thông những điểm nghẽn còn ách tắc trong kết nối, chia sẻ dữ liệu? Cần những cơ chế đặc thù gì Việt Nam trở thành cái nôi của khởi nghiệp sáng tạo và phát triển công nghệ mới? Làm gì để xây dựng một xã hội số văn minh, bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau? Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội như thế nào cho hiệu quả, như đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, hợp tác công tư?", Thủ tướng đặt vấn đề.

Với phương châm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", Thủ tướng đề nghị các đại biểu góp ý để xây dựng một chương trình về kinh tế số, xã hội số phù hợp với điều kiện, đặc thù Việt Nam trong dòng chảy chung của thế giới, để Việt Nam tiến cùng, bắt kịp và vượt lên về phát triển kinh tế số, xã hội số trong kỷ nguyên mới. Theo Thủ tướng, đây là việc không phải đơn giản nhưng nếu có cách đi, cách làm tốt thì sẽ rút ngắn được thời gian, tiết kiệm được công sức.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 7.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng trình bày báo cáo dẫn đề về phát triển kinh tế số và xã hội số Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Trình bày báo cáo dẫn đề về phát triển kinh tế số và xã hội số Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết:

Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng tốc chiến lược để thực hiện khát vọng phát triển nhanh và bền vững, đưa đất nước ta trở thành quốc gia thu nhập cao trong những thập niên tới. Trong hành trình đó, kinh tế số và xã hội số không còn là lựa chọn mà là con đường tất yếu, là động lực cốt lõi của tăng trưởng và đổi mới mô hình phát triển.

Diễn đàn lần thứ ba sẽ bàn một vấn đề lớn: Làm thế nào để kinh tế số và xã hội số thực sự trở thành không gian phát triển mới của Việt Nam, chứ không chỉ là sự số hóa của mô hình cũ, để góp phần mang tính quyết định cho tăng trưởng hai con số?

Phát triển kinh tế số và xã hội số của Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ chuyển từ số hóa cái cũ sang kiến tạo không gian phát triển mới, nơi dữ liệu, AI, nền tảng số, doanh nghiệp số và công dân số cùng trở thành động lực tăng trưởng.

Kinh tế số của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu là số hóa các hoạt động cũ, chưa chuyển mạnh sang tạo mô hình tăng trưởng mới. Tỉ trọng kinh tế số trong GDP tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng nội địa còn thấp, phụ thuộc nhiều vào các nền tảng xuyên biên giới. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực sự tham gia vào chuỗi giá trị số.

Vì vậy, nhiệm vụ của giai đoạn tới không chỉ là làm nhiều hơn, mà là làm khác đi, làm sâu hơn, tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn và làm bền vững hơn. Bởi vậy, rất cần những đổi mới mang tính đột phá.

Thứ nhất, kiến tạo một cấu trúc nền kinh tế số quốc gia thay vì số hóa rời rạc từng lĩnh vực. Chuyển từ tiếp cận mỗi ngành một đề án chuyển đổi số sang thiết kế lại cấu trúc nền kinh tế dựa trên các lớp hạ tầng số dùng chung như viễn thông, internet, điện toán, dữ liệu số, AI, nền tảng số và dịch vụ số. Nhà nước phải đóng vai kiến trúc sư trưởng của nền kinh tế số và xã hội số quốc gia, định hình cấu trúc để thị trường vận hành.

Bản chất sâu xa của kinh tế số là tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế, từ cách sản xuất, phân phối, tiêu dùng đến cách tổ chức thị trường, quản trị doanh nghiệp và phân bổ nguồn lực xã hội. Kinh tế số dựa trên tư liệu sản xuất mới là dữ liệu, dựa trên phương tiện máy móc sản xuất mới là hạ tầng số, cloud, IoT, AI và nền tảng số; dựa trên khung vận hành mới là các luật lệ mới về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, dữ liệu số, công nghệ số, AI và an toàn, an ninh mạng; dựa trên các chủ thể số là doanh nghiệp số và chuỗi giá trị số. Kinh tế số không phải là thêm một ngành, mà là số hóa, tái cấu trúc mọi ngành, mọi lĩnh vực, dựa trên điều kiện đủ là công dân số và niềm tin số. Đây là nền tảng của xã hội số và là điều kiện để kinh tế số vận hành bền vững. Không có niềm tin số thì sẽ không có giao dịch số, không có kinh tế số.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 8.
TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 9.

Đại diện lãnh đạo các bộ, ngành và các đại biểu tham dự Diễn đàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ hai, coi dữ liệu, AI, năng lực tính toán là năng lực sản xuất nền tảng của nền kinh tế số, không chỉ là công cụ hỗ trợ, tương đương như điện, nước, viễn thông. Nhà nước, doanh nghiệp, người dân có thể sử dụng dưới dạng dịch vụ. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh vai trò mới của các nhà mạng viễn thông thế hệ mới đối với sự phát triển kinh tế số và xã hội số. Nhà mạng không chỉ cung cấp kết nối mà cung cấp các năng lực số cốt lõi để doanh nghiệp xây dựng sản phẩm dịch vụ và vận hành nền kinh tế. Giá trị của nhà mạng không chỉ nằm ở số thuê bao mà nằm ở số lượng dịch vụ mà các doanh nghiệp khác xây dựng trên mạng. Nhà mạng phải trở thành xương sống của không gian số quốc gia, không chỉ là mạng viễn thông, đó còn là trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây, điện toán biên, nền tảng, an toàn an ninh mạng.

Thứ ba, chuyển từ chính phủ điện tử là số hóa thủ tục sang nhà nước điều hành dựa trên dữ liệu và mô hình dự báo. Nhà nước là một hệ thống phức hợp, vượt quá khả năng xử lý của con người, nhưng một khi đã lên môi trường số thì AI có khả năng xử lý, dự báo. Các chính sách được thiết kế, mô phỏng, thử nghiệm, đánh giá tác động bằng dữ liệu sẽ nhanh hơn và chính xác hơn. Quản lý theo rủi ro, theo tác động xã hội, giám sát diện rộng rồi thanh kiểm tra có trọng tâm.

Thứ tư, phát triển thị trường số quốc gia lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Chuyển từ hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số sang tạo thị trường số, tạo cầu cho doanh nghiệp Việt Nam, tạo niềm tin cho doanh nghiệp số Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam lớn lên trong thị trường nội địa rồi từ đó đi ra toàn cầu, hình thành các tập đoàn công nghệ Việt Nam có năng lực nền tảng số.

Thứ năm, xây dựng xã hội số lấy con người làm trung tâm và niềm tin số làm nền tảng. Chuyển đổi số cuối cùng là chuyển đổi con người. Cần phổ cập kỹ năng số, tư duy số, đạo đức số cho toàn xã hội, xây dựng văn hóa số Việt Nam nhân văn, an toàn, sáng tạo và có trách nhiệm. Xã hội số không chỉ là phổ cập công nghệ mà là trao quyền số cho người dân, gắn với niềm tin, đạo đức và văn hóa số. Nếu kinh tế số trả lời câu hỏi "làm ra của cải như thế nào?" thì xã hội số trả lời câu hỏi "phát triển vì ai?".

Xã hội số không phải là xã hội mà mọi thứ đều được đưa lên môi trường mạng, mà là xã hội trong đó mỗi người dân được trao quyền nhiều hơn nhờ có công nghệ số: Quyền tiếp cận thông tin, quyền tiếp cận dịch vụ công, quyền học tập suốt đời, quyền tham gia quản lý xã hội. Trong xã hội số thì công dân số không chỉ là người thụ hưởng mà là chủ thể tham gia kiến tạo chính sách. Chính quyền không chỉ là cơ quan quản lý mà là nhà cung cấp dịch vụ công dựa trên dữ liệu. Cộng đồng số trở thành một không gian xã hội mới song song và gắn kết với không gian vật lý.

Kinh tế số và xã hội số không chỉ là câu chuyện của công nghệ mà là câu chuyện của tái cấu trúc phát triển, tái thiết niềm tin và tái định vị vai trò nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong kỷ nguyên số. Với dữ liệu làm nền tảng, nền tảng số làm động lực, thể chế làm dẫn dắt và con người làm trung tâm, chúng ta có đủ điều kiện để chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng cuộc sống, xã hội.

Bộ Khoa học và Công nghệ cam kết tiếp tục đóng vai trò kiến trúc sư về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp để hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững, bao trùm trong kỷ nguyên số.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 10.
Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia trình bày bài tham luận với chủ đề "Từ dữ liệu quốc gia về dân cư tới phát triển kinh tế dữ liệu" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Trình bày bài tham luận với chủ đề "Từ dữ liệu quốc gia về dân cư tới phát triển kinh tế dữ liệu", Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia phân tích: Nhân loại đã trải qua nhiều hình thái kinh tế, mỗi hình thái đều gắn liền với những tư liệu sản xuất đặc trưng. Ở thế kỷ XIX là thời đại của than đá và thép, thế kỷ XX là thời đại của dầu mỏ và điện năng, thế kỷ XXI hiện nay là thời đại của dữ liệu và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, khác với dầu mỏ, than đá, sắt thép, dữ liệu không bị cạn kiệt mà có thể được làm giàu thêm, vừa là tư liệu sản xuất chính nhưng cũng đồng thời tạo ra thặng dư dữ liệu.

Nếu hình thái kinh tế số gắn với công nghệ thông tin, máy tính, vi mạch, điện tử, tự động hóa, Internet, thì hình thái kinh tế dữ liệu sẽ gắn liền với dữ liệu, trí tuệ nhân tạo. Nói cách khác, cuộc cách mạng dữ liệu đã và đang mang lại một hình thái mới - kinh tế dữ liệu, trong đó dữ liệu trở thành nguồn lực chiến lược để thúc đẩy hoạt động kinh tế xã hội, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Trong kinh tế dữ liệu, dữ liệu là nguồn lực đầu vào, là tư liệu sản xuất chính để tạo ra giá trị mới. Dữ liệu là tài sản kinh tế đặc biệt, nó được trao đổi, định giá và thương mại hóa. Dữ liệu là nền tảng cho trí tuệ, dự báo, ra quyết định và có thể thay đổi hành vi và quản trị xã hội. Tại sao phải xác định kinh tế dữ liệu là đột phá chiến lược?

Thứ nhất, dữ liệu là động lực tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời đại mới.

Thứ hai, dữ liệu là tư liệu sản xuất cho kỷ nguyên mới, đặc biệt là các công nghệ lõi như AI; không có dữ liệu thì không có AI.

Thứ ba, dữ liệu có yếu tố địa chính trị, liên quan trực tiếp đến chủ quyền, an ninh và vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay khái niệm chủ quyền an ninh mạng cũng đã đan xen với chủ quyền về an ninh dữ liệu.

Thứ tư, dữ liệu có tiềm năng không thể lường trước được, có thể giúp tăng tốc hoặc bỏ qua các giai đoạn phát triển truyền thống.

Thứ năm, đây là cơ hội tốt nhất của nước ta để nâng cao vị thế quốc gia.

Nhận thức rõ được điều này có nghĩa là chúng ta đang bước vào một cuộc cách mạng nhận thức mới, đó là tìm ra một tư liệu sản xuất mới, phương thức sản xuất mới kết hợp với lực lượng sản xuất mới tác động đến quan hệ sản xuất để bước vào kỷ nguyên mới. Trong bối cảnh đó, với tầm nhìn lịch sử, Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy cuộc cách mạng dữ liệu triển khai trên một bối cảnh rộng lớn, từ xây dựng hạ tầng dữ liệu tin cậy tới tạo lập dữ liệu tin cậy quốc gia, từ tự chủ làm chủ công nghệ lõi tới nâng cao nhận thức toàn dân và xây dựng nguồn lực chuyên gia có trình độ cao. Điều đó có nghĩa là chúng ta đang mong muốn và cố gắng chuyển hóa rất nhanh một chu trình phát triển mà thế giới đã vượt qua để bắt kịp và tiến tới làm chủ một hình thái kinh tế mới mà thế giới đang hướng tới.

Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia đang được tạo lập và phát huy vai trò to lớn, trong đó dữ liệu quốc gia về dân cư của Bộ Công an đã xây dựng không đơn thuần chỉ là công cụ quản lý hành chính mà còn đóng vai trò rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số, thể hiện ở ba vai trò chính:

Thứ nhất, nó tạo một nền tảng cho phổ cập dịch vụ số trên phạm vi toàn quốc khi mỗi công dân xác lập một danh tính số duy nhất, được định danh và xác thực tin cậy. Nhà nước, Chính phủ có điều kiện để cung cấp các dịch vụ trong môi trường số một cách thống nhất, liên thông và an toàn.

Trên cơ sở đó, phương thức phục vụ được từng bước tái cấu trúc theo hướng cắt giảm các yêu cầu thành phần hồ sơ người dân phải kê khai, xuất trình nhiều lần, tăng cường khai thác tái sử dụng dữ liệu sẵn có từ các bộ ngành. Và việc phổ cập dịch vụ số trên nền tảng dữ liệu dân cư cũng sẽ góp phần xóa bỏ rào cản về không gian địa lý và tạo điều kiện để người dân vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ công tới mức độ thuận lợi nhất, tương đương với khu vực đô thị, qua đó góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.

Thứ hai, cơ sở dữ liệu dân cư đã tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của kinh tế số. Dữ liệu dân cư chính xác, được chuẩn hóa và cập nhật thường xuyên là điều kiện để các mô hình kinh doanh trên môi trường số vận hành an toàn, hiệu quả và có khả năng mở rộng. Các lĩnh vực như thương mại điện tử, tài chính số, y tế số, giáo dục số cần dựa trên hệ thống định danh và xác thực điện tử để xác định người dùng, góp phần phòng ngừa gian lận, củng cố niềm tin trong giao dịch. Hơn nữa, khi dữ liệu được khai thác, phân tích bằng công nghệ AI và Big Data, sẽ tạo ra giá trị kinh tế gấp nhiều lần giá trị ban đầu. Đây chính là "dầu mỏ" của thế kỷ XXI, là nguồn tài nguyên vô tận cho đổi mới sáng tạo, ra đời hàng nghìn sản phẩm dịch vụ mới, tạo việc làm và đóng góp vào tăng trưởng GDP.

Thứ ba, cơ sở dữ liệu dân cư đã góp phần phát triển và xây dựng xã hội số văn minh, tiến bộ và bền vững. Dữ liệu chính xác sẽ giúp Nhà nước quản trị dựa trên bằng chứng, từ đó hoạch định các chính sách khoa học, phân bổ nguồn lực hợp lý, phục vụ người dân tốt hơn. Đồng thời, dữ liệu còn là công cụ để trao quyền giúp công dân chủ động kiểm soát thông tin cá nhân, tham gia giám sát công quyền để góp phần xây dựng xã hội dân chủ minh bạch. Khi dữ liệu sống và chảy thông suốt thì xã hội là một hệ sinh thái hoàn chỉnh, nơi mọi hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị đều được số hóa, tối ưu và kết nối.

Trong thời gian qua, Đề án 06 đánh dấu bước chuyển mình lịch sử của Việt Nam trong cuộc chuyển đổi số. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã có 107 triệu dữ liệu công dân, kết nối với 15 bộ ngành và 34 địa phương, tiếp nhận 2,1 tỷ lượt yêu cầu xác thực. Ứng dụng VNeID có 67 triệu tài khoản định danh điện tử, tích hợp 50 tiện ích. Cổng dịch vụ công quốc gia tích hợp 4.700 thủ tục, tiếp nhận 11,5 triệu hồ sơ trực tuyến năm 2025 và tiết kiệm hơn 4.000 tỷ đồng chi phí xã hội. VNeID chi trả 33.000 tỷ tiền an sinh xã hội cho 675.000 người.

Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực chất, chúng ta mới ở giai đoạn xây nền móng bước đầu của nền kinh tế dữ liệu. Mới chỉ có cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phát huy vai trò cốt lõi như vậy. Nếu chúng ta hình thành và khai thác được tiềm năng của cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với 4 trụ cột dữ liệu chính là con người, vật phẩm, địa điểm và hoạt động thì sẽ phát huy vai trò hơn nữa. Trước thực trạng trên, để tận dụng mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026-2030, chúng ta cần phải giải quyết ba điểm nghẽn quan trọng.

Điểm nghẽn thứ nhất là nghịch lý giữa có dữ liệu nhưng thiếu dữ liệu sống động. Chúng ta mới có 12 cơ sở dữ liệu trọng điểm theo Quyết định 02/QĐ-TTg ngày 12/1/2021, có 8 cơ sở dữ liệu chưa có nền tảng cơ sở dữ liệu chung hoặc mức độ hoàn thiện rất thấp. Với 105 cơ sở dữ liệu được giao tại Quyết định 71/QĐ-TTg của Chính phủ, mặc dù các bộ ngành đã cam kết sẽ hoàn thành trong năm 2025 tại hai phiên họp liên ngành, nhưng thực tế khảo sát cho thấy có 38/105 cơ sở dữ liệu Bộ Công an đánh giá có nguy cơ cao không hoàn thành trong năm 2025.

Điểm nghẽn thứ hai là mâu thuẫn giữa có nền tảng nhưng thiếu hệ sinh thái. VNeID có 67 triệu tài khoản nhưng chưa thực sự trở thành siêu nền tảng, người dân vẫn có thể sử dụng nhiều ứng dụng khác nhau cho từng dịch vụ và chưa có trải nghiệm liền mạch. Chưa có cơ chế đột phá về hoạt động sáng tạo khai thác cho dữ liệu từ Trung tâm Dữ liệu Quốc gia để hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp có thể khai thác dữ liệu một cách hợp pháp an toàn để phát triển sản phẩm đổi mới, nhất là hoạt động khai thác dữ liệu công tư kết hợp. Chương trình vườn ươm tạo dữ liệu quốc gia và một nền tảng công nghiệp phát triển kinh tế dữ liệu khi đã có hạ tầng vẫn còn sơ khai.

Điểm nghẽn thứ ba là chúng ta chưa xác định được mô hình kinh tế dữ liệu của quốc gia. Thế giới hiện nay có ba mô hình chính: Thị trường tự do của Mỹ (doanh nghiệp và hệ sinh thái dữ liệu giữ vai trò chủ đạo, quy mô toàn cầu, đổi mới và thương mại hóa AI nhanh chóng); mô hình Nhà nước điều phối của Trung Quốc; mô hình lợi ích của người dân của EU. Trong khi đó, chúng ta mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển và mô hình kinh tế dữ liệu cho riêng mình đang ở bước đầu.

Để vượt qua ba điểm nghẽn, từ đó tạo bước nhảy vọt, Bộ Công an đề xuất 5 đột phá chiến lược để gắn chặt chẽ với mục tiêu phát triển kinh tế số và xã hội số.

Đột phá thứ nhất là xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế dữ liệu. Nước ta có thế mạnh về lực lượng lao động trẻ, tiếp cận tốc độ, tiếp cận số rất nhanh, nguồn tài nguyên dữ liệu đang được tạo lập có quy mô quốc gia, hạ tầng dữ liệu tin cậy quốc gia hiện đại đang được triển khai có hiệu quả. Đảng và Nhà nước đã ưu tiên các chính sách và chiến lược dữ liệu quốc gia. Đây là điều kiện tạo nên cơ hội phát triển đột phá để tăng tốc, bỏ qua giai đoạn phát triển truyền thống. Quan điểm lựa chọn chiến lược kinh tế dữ liệu nên được cân bằng giữa Nhà nước, thị trường và quyền công dân, tăng thu hút FDI và hình thành các doanh nghiệp nội địa thế hệ mới dựa trên dữ liệu từ đầu, xác định vị thế bản sắc giá trị riêng giữa các hệ sinh thái dữ liệu của quốc gia trên thế giới.

Đột phá thứ hai là xây dựng hệ sinh thái dữ liệu mở để phục vụ doanh nghiệp và đổi mới sáng tạo. Bộ Công an đang tham mưu xây dựng nghị định quy định về cơ chế đột phá phát triển cho hoạt động sáng tạo khai thác dữ liệu từ vườn ươm sáng tạo, khai thác dữ liệu thuộc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia. Định hướng phát triển trung tâm là vườn ươm cung cấp hỗ trợ toàn diện cho các doanh nghiệp từ cơ sở vật chất, kết nối vốn đầu tư, tư vấn chuyên môn để tạo điều kiện khởi nghiệp và thương mại hóa sản phẩm. Mô hình này đã thành công ở Singapore, Estonia và đang kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam hình thành các công nghiệp dữ liệu trị giá hàng tỷ USD để đóng góp trực tiếp vào kinh tế số, chiếm 30% GDP vào năm 2030.

Đột phá thứ ba là nâng cấp VNeID thành siêu nền tảng số quốc gia, trung tâm của hệ sinh thái số. Đây là một giải pháp để VNeID không chỉ là ứng dụng định danh mà trở thành điểm truy cập duy nhất, kết nối liền mạch giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Đột phá thứ tư là triển khai chiến lược phát triển công dân số quốc gia với cơ chế khuyến khích đột phá. Đây là giải quyết điểm nghẽn về nguồn lực nhân lực cho xã hội số. Bộ Công an đang chủ trì xây dựng Nghị quyết phát triển công dân số, văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam quy định toàn diện về công dân số.

Đột phá thứ năm là triển khai có hiệu quả khung kiến trúc dữ liệu quốc gia để các bộ ngành căn cứ vào đó xây dựng khung kiến trúc cho bộ, ngành, địa phương mình, và xây dựng nghị định tổ chức hoạt động của Trung tâm Dữ liệu Quốc gia như Thủ tướng đã chỉ đạo.

Năm đột phá chiến lược Bộ Công an đề xuất không phải là 5 mảnh ghép rời rạc mà sẽ là hệ thống tích hợp tác động đến các trụ cột phát triển kinh tế dữ liệu. Khi có hệ sinh thái dữ liệu quốc gia lấy con người làm trung tâm thì từng bước đẩy nhanh chuyển đổi số. Và khi có lực lượng sản xuất trình độ cao, xã hội số sẽ hình thành tự nhiên; khi có dữ liệu tin cậy, tất cả sẽ phát triển bền vững. Bộ Công an tin tưởng rằng kinh tế dữ liệu là con đường để Việt Nam không chỉ đuổi kịp mà vượt lên, đạt mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đã đề ra. Bộ Công an cam kết đồng hành cùng Chính phủ, doanh nghiệp và toàn thể người dân để thực hiện từ khóa: Đưa Việt Nam phát triển hùng cường và phồn vinh.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 11.
Ông Hồ Quang Bửu, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, chia sẻ kinh nghiệm phát triển dữ liệu mở phục vụ phát triển kinh tế số và xã hội số của thành phố Đà Nẵng - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tham luận về phát triển dữ liệu mở phục vụ phát triển kinh tế số và xã hội số, những kinh nghiệm từ thành phố Đà Nẵng, ông Hồ Quang Bửu, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng cho biết: Trong tiến trình chuyển đổi số, thành phố Đà Nẵng xác định dữ liệu là hạ tầng quan trọng, là nguồn tài nguyên mới cần thực hiện khai thác hiệu quả để càng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Thành phố đã sớm ban hành và triển khai Đề án Chuyển đổi số, Đề án Xây dựng thành phố thông minh, trong đó lấy khơi thông dữ liệu công làm nhiệm vụ trung tâm. Đà Nẵng là một trong những địa phương đầu tiên xây dựng và vận hành Cổng dữ liệu mở Thành phố, được xác định là nền tảng hạ tầng dữ liệu dùng chung phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội.

Ông Hồ Quang Bửu chia sẻ 4 nhóm giải pháp chính:

Thứ nhất là thể chế và cách tiếp cận. Đà Nẵng đã sớm ban hành danh mục dữ liệu mở vào năm 2023 và quy chế chia sẻ dữ liệu. Đồng thời đưa chỉ tiêu cung cấp dữ liệu mở vào kế hoạch chuyển đổi số hằng năm, yêu cầu 100% các cơ quan nhà nước tham gia cung cấp dữ liệu. Đặc biệt, Đà Nẵng áp dụng cách tiếp cận "mở theo nhu cầu". Theo đó, chuyển từ "Thành phố có gì công bố cái đó" sang "người dân, doanh nghiệp cần gì Thành phố công bố cái đó" và yêu cầu các cơ quan địa phương định kỳ lấy ý kiến các doanh nghiệp, trường học về nhu cầu, yêu cầu dữ liệu mở để triển khai cung cấp.

Thứ hai là tiên phong về nền tảng kỹ thuật. Thành phố Đà Nẵng là địa phương đầu tiên nghiên cứu đưa vào sử dụng thí điểm Cổng dịch vụ dữ liệu mở. Đến năm 2023, Cổng đã chính thức yêu cầu sử dụng thống nhất trên toàn Thành phố. Cổng dữ liệu được thiết kế một đầu mối, một nền tảng, hỗ trợ nhiều dịch vụ và máy đọc được, và nhiều phương thức khai thác như tra cứu trực tiếp, API, ứng dụng số, tạo thuận lợi tối đa cho việc sử dụng dữ liệu. Cổng dữ liệu mở được xây dựng không chỉ là nền tảng dùng chung để cơ quan nhà nước chia sẻ dữ liệu nhằm phát triển hạ tầng dữ liệu bền vững trong chính quyền số, mà còn là đầu mối cung cấp dữ liệu mở miễn phí cho người dân, doanh nghiệp và cộng đồng khai thác, sử dụng và sáng tạo.

Thứ ba là thúc đẩy nền kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Nguồn tài nguyên miễn phí cho đổi mới, Cổng dữ liệu mở Đà Nẵng đã công khai hơn 1.500 bộ dữ liệu, thu hút hơn 1.800 tài khoản đăng ký, sử dụng và hơn 5,8 triệu lượt truy cập. Đây là nguồn tài nguyên dồi dào miễn phí cho doanh nghiệp, startup và các cá nhân để phát triển ứng dụng các dịch vụ mới như thúc đẩy phát triển du lịch thông minh, quản lý giao thông và đô thị hiệu quả, thu hút đầu tư minh bạch…

Thứ tư là ứng dụng dữ liệu mở trong cung cấp dịch vụ tiện ích số cho người dân và doanh nghiệp. Cổng dữ liệu mở đã công khai nhiều thông tin quan trọng như quy hoạch đô thị, đất đai, chất lượng môi trường giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, tra cứu, giám sát. Qua đó góp phần nâng cao tính minh bạch và củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư đối với chính quyền Thành phố. Trên cơ sở đó, dữ liệu mở còn khai thác hiệu quả và phát triển các ứng dụng giải quyết những vấn đề xã hội thiết thực tiêu biểu như: Phòng chống thiên tai, bản đồ dịch tễ, dữ liệu bệnh viện, nhà thuốc…

Từ những kinh nghiệm và kết quả triển khai đến nay, trong giai đoạn 2026-2030, Đà Nẵng tiếp tục định hướng phát triển Cổng dữ liệu mở không chỉ là giải pháp công nghệ mà là phương thức quản trị mới và là chìa khóa quan trọng để mở khóa tiềm năng tăng trưởng GDP.

Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng đề xuất 3 nội dung:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý quốc gia. Đề xuất Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an xem xét ban hành Chiến lược quốc gia về dữ liệu mở và các hướng dẫn kỹ thuật chi tiết để các địa phương có căn cứ pháp lý và kỹ thuật rõ ràng trong việc công bố và tái sử dụng dữ liệu mở. Ban hành Chỉ số sẵn sàng dữ liệu mở quốc gia. Chỉ số này sẽ trở thành mục tiêu KPI bắt buộc cho xếp hạng chuyển đổi số quốc gia, tạo động lực cho các bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả. Hướng dẫn phân loại và chi tiết công bố rõ ràng danh mục dữ liệu mở, dữ liệu được phép mở, dữ liệu được mở có điều kiện và dữ liệu tuyệt đối không được mở. Điều này giúp cho cơ quan nhà nước sẽ an tâm hơn trong việc thực hiện liên quan đến bảo đảm an ninh an toàn thông tin của Nhà nước và nhân dân.

Thứ hai, thúc đẩy áp dụng công nghệ mới. Đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành các hướng dẫn kỹ thuật về cổng dữ liệu mở, định dạng công bố, mức độ chi tiết, tần suất cập nhật để bảo đảm dữ liệu mở tuân thủ nguyên tắc "đúng, đủ, sạch, sống", thống nhất dùng chung. Khuyến khích các cơ quan công bố dữ liệu dưới định dạng máy đọc được để thúc đẩy việc sử dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI) trong dữ liệu lớn (Big Data) nhằm khai thác triệt để giá trị gia tăng từ dữ liệu. Xây dựng chương trình đào tạo tập trung cho cán bộ về kỹ năng quản lý dữ liệu và công bố dữ liệu mở tiêu chuẩn.

Thứ ba, đề nghị Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính hướng dẫn các địa phương xây dựng và phát triển sàn giao dịch dữ liệu. Việc phát triển sàn giao dịch dữ liệu là bước tiến logic và cần thiết sau khi xây dựng được cổng dữ liệu mở. Nếu dữ liệu mở là tài nguyên miễn phí thì sàn giao dịch dữ liệu là nơi dữ liệu được thương mại hóa, tạo ra nguồn thu mới và thúc đẩy kinh tế số tại địa phương.

Thành phố Đà Nẵng cam kết tiếp tục đẩy mạnh chia sẻ dữ liệu, tạo ra một môi trường hệ sinh thái dữ liệu mở bền vững, góp phần cùng cả nước thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế số, xã hội số và đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số trong thời gian tới.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 12.
Ông Arnaud Ginolin, Giám đốc điều hành Boston Consulting Group (BCG), chia sẻ về phát triển kinh tế không gian tầm thấp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tham luận về phát triển kinh tế không gian tầm thấp, ông Arnaud Ginolin, Giám đốc điều hành Boston Consulting Group (BCG), nhận định rằng, nền kinh tế tầm thấp đang nổi lên như một hướng phát triển mới giàu tiềm năng. Về khái niệm, kinh tế tầm thấp là hệ sinh thái khởi nghiệp, công nghiệp và công nghệ hoạt động trong không gian dưới 1.000 m. Hệ sinh thái này bao gồm nhiều loại thiết bị bay khác nhau, hình thành một tầng không gian kinh tế mới ngay phía trên mặt đất.

Cấu trúc của nền kinh tế tầm thấp hiện xoay quanh hai phân khúc chính.

Thứ nhất là máy bay không người lái, bao gồm cả các nền tảng cất cánh thẳng đứng hoặc cất - hạ cánh đường băng ngắn.

Thứ hai là eVTOL - máy bay điện cất cánh và hạ cánh thẳng đứng, có khả năng chở từ 9-10 hành khách hoặc vận chuyển hàng hóa với tải trọng lên tới khoảng 200 kg. Đây chính là trụ cột cốt lõi của nền kinh tế tầm thấp hiện nay.

Sự quan tâm ngày càng tăng đối với lĩnh vực này xuất phát từ việc nhiều trường hợp sử dụng đã đạt đến độ chín về công nghệ và hiệu quả kinh tế. BCG xác định 6 nhóm ứng dụng chính, được sắp xếp theo mức độ trưởng thành.

Đứng đầu là lĩnh vực quân sự và an ninh, đặc biệt là các hoạt động ISR (tình báo, giám sát và trinh sát). Việc sử dụng thiết bị bay không người lái giúp tăng độ chính xác trong khi giảm đáng kể chi phí vận hành so với các đội bay truyền thống.

Thứ hai là nông nghiệp, nơi drone được ứng dụng trong gieo hạt, bón phân chính xác và giám sát cây trồng. Thực tế cho thấy năng suất đã được cải thiện rõ rệt tại những khu vực áp dụng công nghệ này.

Thứ ba là logistics, tập trung vào giao hàng chặng ngắn và ngày càng mở rộng sang vận chuyển tải trọng nặng, đặc biệt trong các khu vực đô thị hoặc khó tiếp cận.

Thứ tư là ứng phó thảm họa, bao gồm giám sát thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trong lũ lụt, cháy rừng và sạt lở đất. Đây là lĩnh vực có mức độ phù hợp cao với điều kiện tự nhiên của Việt Nam nhờ khả năng phản ứng nhanh và chi phí thấp.

Hai nhóm ứng dụng còn lại là du lịch trải nghiệm và vận tải hàng không, trong đó vận chuyển hành khách vẫn còn bị giới hạn bởi công nghệ pin và tầm bay, nhưng tiềm năng dài hạn là rất lớn.

Về dài hạn, kinh tế tầm thấp không chỉ dừng lại ở drone, mà có thể mở rộng thành một hệ sinh thái tích hợp với hạ tầng số, viễn thông 5G-6G, hệ thống quản lý không lưu tầm thấp (UTM) và các trung tâm điều phối dựa trên AI. Những nền tảng này cho phép quản lý giao thông đa tầng an toàn, đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ cho hạ tầng viễn thông mặt đất, bao gồm cả vận chuyển và triển khai thiết bị.

Quy mô thị trường kinh tế tầm thấp toàn cầu năm 2025 ước đạt 50-180 tỷ USD và dự kiến tăng trưởng khoảng 13% mỗi năm, đạt 250-330 tỷ USD vào năm 2030. Động lực tăng trưởng đến từ thương mại, vận tải số, hạ tầng mạng, công nghiệp, cùng với quốc phòng, an ninh.

Để một nền kinh tế tầm thấp phát triển thành công, cần hội tụ năm yếu tố then chốt: Khung pháp lý và ưu đãi toàn diện; lựa chọn các trường hợp sử dụng ưu tiên có tác động kinh tế - xã hội rõ ràng; xây dựng hệ sinh thái công nghệ; triển khai các khu thí điểm, sandbox; và mở rộng quy mô công nghiệp.

Đối với Việt Nam, cơ hội chính sách có thể được tiếp cận theo 3 định hướng.

Thứ nhất là khai phá các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như nông nghiệp, logistics, vận tải và đô thị, với tiềm năng tăng năng suất khoảng 10% khi áp dụng công nghệ tầm thấp.

Thứ hai là tăng cường an ninh quốc gia và năng lực giám sát trong phòng chống thiên tai và quản lý biên giới.

Thứ ba là hình thành các cụm công nghệ và xuất khẩu chuyên biệt, tập trung vào linh kiện AI, phần mềm và giải pháp "Made in Vietnam".

Chuỗi giá trị của kinh tế tầm thấp bao gồm khoảng 50 khối công nghệ khác nhau, đòi hỏi Việt Nam phải lựa chọn có trọng tâm thay vì phát triển dàn trải.

Do đó, chúng tôi đưa ra 5 kiến nghị. Đó là Việt Nam cần xây dựng chiến lược kinh tế tầm thấp quốc gia rõ ràng và thực tế; thiết kế lộ trình chính sách gắn với hàng không dân dụng, quốc phòng và quản lý không gian bay; triển khai các mô hình thí điểm tại khu vực trọng điểm hoặc khu thương mại tự do; ưu tiên làm chủ công nghệ lõi thông qua hợp tác chiến lược; và tăng tốc đầu tư hạ tầng hiện đại cùng đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực robot, AI và hàng không.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 13.
TS. Phạm Tuấn Anh, Giám đốc Công nghệ thông tin, Tổng Giám đốc Công ty Viễn thông và CNTT (VNTT) Tập đoàn Becamex, chia sẻ về mô hình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh công nghiệp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

TS. Phạm Tuấn Anh, Giám đốc Công nghệ thông tin, Tổng Giám đốc Công ty Viễn thông và CNTT (VNTT) Tập đoàn Becamex, chia sẻ về mô hình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh công nghiệp Becamex. Ông Tuấn cho biết, trong suốt 30 năm qua, Tập đoàn Becamex là một trong những đơn vị hàng đầu trong thu hút và phát triển theo mô hình công nghiệp - đô thị - dịch vụ, đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng tại nhiều địa phương, nổi bật là tỉnh Bình Dương, vùng phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh. Từ một nền nông nghiệp, Becamex đã chuyển đổi sang phát triển công nghiệp theo chiều rộng, đưa nông thôn trở thành đô thị và nâng cao trình độ người lao động trở thành công nhân, trí thức.

Với mô hình phát triển này, Tập đoàn Becamex đã có sự lan tỏa mạnh mẽ. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ và các bộ, ban, ngành, Becamex phát triển các liên doanh như khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP). Hiện nay, VSIP đã có mặt tại 13/34 tỉnh, thành phố và dự kiến sẽ mở rộng ra 20 địa phương trong 5 năm tới. Bên cạnh VSIP, Becamex còn hình thành các liên doanh khác như BW Industrial hợp tác với Warburg Pincus để phát triển thương mại, dịch vụ, logistics; VNTT hợp tác với Nhật Bản để phát triển viễn thông, công nghệ thông tin và công nghiệp 4.0; hay Tokyo Nhật Bản trong lĩnh vực phát triển đô thị. Các đơn vị này cũng đã phát triển và lan tỏa mô hình ra nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.

Khoảng từ năm 2016, trước những thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lãnh đạo Tập đoàn đã chỉ đạo nghiên cứu các xu hướng toàn cầu, các chiến lược phát triển công nghiệp 4.0 và vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Từ đó, Becamex đã xây dựng và định hình chiến lược phát triển công nghiệp của Tập đoàn. Hai xu hướng chính của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là thông minh hóa và xanh hóa, hay còn gọi là chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Trong đó, hệ thống sản xuất sẽ chuyển đổi từ tự động hóa sang tự hành, và thị trường tín chỉ carbon trở thành một sân chơi mới mà các quốc gia cần tham gia để giành lợi thế trong cuộc đua sản xuất và xuất khẩu.

Đối diện với những thách thức này, bài toán đặt ra là chuyển đổi mô hình phát triển cho Becamex từ thông minh hóa sang xanh hóa trên nền tảng mô hình công nghiệp - đô thị - dịch vụ.

Về mặt thông minh hóa, Becamex xây dựng các trung tâm xuất sắc, trung tâm sản xuất thông minh, công nghiệp 4.0, phòng lab công nghệ 4.0, trường đại học, và các trung tâm Fab Lab, Tech Lab. Dự án nổi bật trong mảng xanh là việc VSIP cung cấp toàn bộ năng lượng tái tạo cho nhà máy Lego tại khu công nghiệp VSIP 3. Dự kiến, dự án này sẽ giúp giảm 15.000 tấn CO2 mỗi năm. Thông qua quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, Becamex cũng tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới cho thế hệ tiếp theo của Tập đoàn.

Trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn, đại diện Becamex nêu một số kiến nghị:

Thứ nhất, ở tầm vĩ mô, chúng ta nên xem xét hình thành các trung tâm xuất sắc về chuyển đổi xanh và chuyển đổi số cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Việc này sẽ giúp gia tăng năng suất lao động và có thể hình thành một trung tâm đa điểm đến ở quy mô quốc gia.

Thứ hai, ưu tiên hỗ trợ các nhà đầu tư FDI về thuế và đất đai thông qua các doanh nghiệp đã có ưu tiên sử dụng công nghệ nội địa và địa phương hóa chuỗi cung ứng. Đây là một chiến lược kép, vừa hỗ trợ doanh nghiệp nội địa, vừa chuyển đổi mô hình và hỗ trợ nhà đầu tư.

Thứ ba, hỗ trợ gián tiếp thông qua các doanh nghiệp hạ tầng hoặc doanh nghiệp công nghệ Việt Nam.

Cuối cùng, chuyển đổi mô hình phát triển đòi hỏi chúng ta phải địa phương hóa và nội địa hóa chuỗi cung ứng, đồng thời hỗ trợ các nhà đầu tư song hành cùng doanh nghiệp nội địa cùng nhau phát triển.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 14.
Ông Lê Hồng Việt, Tổng Giám đốc FPT Smart Cloud, chia sẻ về cách sử dụng AI để thúc đẩy tăng trưởng đột phá của Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Lê Hồng Việt, Tổng Giám đốc FPT Smart Cloud, chia sẻ về cách sử dụng AI để thúc đẩy tăng trưởng đột phá của Việt Nam.

Đại diện FPT cho biết, đơn vị đã làm việc với nhiều ngân hàng ở Việt Nam, với những trung tâm chăm sóc khách hàng quy mô từ 1.000-2.000 nhân viên làm việc 24/7. FPT đã phối hợp triển khai các AI agent (tác nhân AI) hỗ trợ người dùng mọi lúc, mọi nơi với rất nhiều trường hợp hỗ trợ khác nhau. Qua hơn 3 năm thực tiễn cho thấy có thể vận hành những trung tâm chăm sóc khách hàng với 70% là AI giúp trả lời các câu hỏi thông dụng, hỗ trợ các dịch vụ và hỗ trợ các khiếu nại về dịch vụ. 30% số công việc được thực hiện bởi con người. Năng suất lao động của mỗi nhân viên trong trung tâm chăm sóc khách hàng tăng gấp 3 lần.

Một ví dụ nữa là chuỗi dược phẩm Long Châu được ứng dụng AI để với mục tiêu tăng chất lượng dịch vụ cũng như tăng kiến thức của trình dược viên. FPT đã ứng dụng, xây dựng "người thầy AI" để 20.000 trình dược viên của chuỗi Long Châu, mỗi người đều có một người bạn, người thầy đi cùng trong mọi hoạt động, hằng ngày trò chuyện, đưa ra những câu hỏi. Sau khoảng 2 tuần, người thầy AI đó có thể xây dựng một bản đồ tri thức của từng trình dược viên, cho thấy họ mạnh về kiến thức gì, yếu gì, cần đào tạo bổ sung thêm những kỹ năng, kiến thức gì. Người thầy AI đó tự sinh ra nội dung dựa trên những dữ liệu được đội đào tạo chuẩn bị và phân phối đến từng trình dược viên. Cách thức đó đã giúp tăng khoảng 15% chất lượng của trình dược viên, tăng 15% năng suất lao động. Nhìn từ góc độ đào tạo, năng suất lao động của người làm đào tạo tăng được đến hàng chục lần. Rất khó có được kết quả đó nếu không sử dụng AI.

Vậy trong một thế giới tương lai khi các dịch vụ số, AI chiếm một lượng lớn trong GDP, để xây dựng một nền kinh tế như vậy thì cần để ý đến những yếu tố gì?

Thứ nhất là với những nền kinh tế truyền thống, chúng ta có hàng hóa, máy móc, nhà máy, nguyên liệu sản xuất, lao động và yếu tố rất quan trọng là năng suất lao động. Khi AI được đưa vào ứng dụng, trở thành một yếu tố cạnh tranh chính thì hàng hóa sẽ gồm các mặt hàng truyền thống cộng với dịch vụ số, các dịch vụ, sản phẩm, kiến thức được AI tạo ra.

Máy móc để làm ra việc này sẽ không chỉ là những cỗ máy truyền thống mà sẽ là những mô hình lớn, ví dụ như các mô hình ngôn ngữ, các tác nhân AI. Các nhà máy tạo ra việc này sẽ trở thành các trung tâm dữ liệu, các siêu máy tính. Nguyên liệu sản xuất khi đó chính là dữ liệu. Về lao động, trước đây chúng ta cạnh tranh với lao động giá rẻ thì bây giờ sẽ phải xây dựng lực lượng lao động chất lượng cộng với khả năng khuếch đại năng suất cùng AI, tức là làm sao lao động của mình và AI có thể cùng phối hợp để tạo ra năng suất lao động gấp vài ba lần. Trước đây chúng ta mong muốn tăng năng suất lao động 10- 15% thì với AI, chúng ta sẽ không nhìn thấy con số tăng tuyến tính như vậy mà mong muốn có được năng suất lao động tăng tính bằng số lần. Do vậy, sẽ cần có những nền tảng, phương pháp, cơ chế để tạo ra được mức tăng lao động như vậy.

Từ góc độ Tập đoàn FPT, chúng tôi mong muốn thực hiện tầm nhìn làm chủ AI cho Việt Nam và chúng tôi đã xây dựng một nền tảng là AI Factory, hướng vào ba đối tượng.

Thứ nhất là các nhân viên nghiệp vụ, những người làm công ăn lương. Chỉ có thể là khai phóng được năng lực cho mỗi người khi mỗi người có thể tự mình xây dựng được trợ lý ảo, trí tuệ nhân tạo riêng cho chính mình. Chúng tôi tập trung xây dựng những nền tảng giúp mọi người có thể xây dựng được trợ lý ảo AI cho chính mình. Đó là mức sơ khai, phổ thông.

Mức thứ hai là giúp tất cả các nhà phát triển, các nhà nghiên cứu có thể tự tạo ra, tự tinh chỉnh các mô hình AI và tự kinh doanh những mô hình đó. Chúng tôi tạo ra lớp thứ hai về nền tảng AI, tập trung vào các lập trình viên, các nhà nghiên cứu và phát triển. Tất cả những năng lực này chạy trên GPU, khả năng tính toán. Chúng tôi phối hợp cùng với NVIDIA xây dựng và mang đến những năng lực tính toán lớn cho cộng đồng, cho các doanh nghiệp, cho các nhà nghiên cứu.

Để làm được việc đó, chúng tôi đã tập trung nguồn lực R&D trong hơn 2 năm qua và phát triển được 43 dịch vụ, tất cả đều làm dưới dạng cho thuê, tức là dễ dàng sử dụng được khi bất cứ lập trình viên nào cũng có thể vào, đăng ký và sử dụng, trả tiền theo đúng lượng sử dụng mà mình mong muốn. Chúng tôi đã mở rộng dịch vụ này đến hơn 15.000 lập trình viên, nhà nghiên cứu trên toàn cầu. Chúng tôi đã hỗ trợ 20 startup sử dụng nguồn lực mà FPT đã đầu tư. Nhà máy của chúng tôi xây dựng được top 38 thế giới về năng lực tính toán và chúng tôi đã phối hợp với nhiều đơn vị xây dựng hơn 60 mô hình ngôn ngữ khác nhau. Chúng ta không có đủ tiềm lực ở hiện tại để xây dựng những mô hình ngôn ngữ lớn thì chúng tôi tập trung vào xây dựng những mô hình ngôn ngữ nhỏ cho các tác vụ khác nhau. Chúng tôi đã tạo ra 11.000 tỷ token được ứng dụng. Chúng tôi cũng hỗ trợ, phối hợp cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai các cuộc thi như cuộc thi Olympic AI để giúp sinh viên có thể tạo ra những mô hình AI cho người Việt, của người Việt.

Chúng tôi mong muốn có thể đưa năng lực tính toán, các dịch vụ về AI và đơn giản hóa việc phát triển AI cho mọi tầng lớp người Việt Nam, từ những nhân viên nghiệp vụ, các chuyên gia công nghệ đến cho những nhà nghiên cứu khoa học.

Chúng tôi cũng mong muốn đề xuất với Chính phủ tạo ra những cơ chế để khuếch đại được ứng dụng AI trong doanh nghiệp. Không chỉ là những công ty công nghệ có thể sử dụng AI mà mọi doanh nghiệp có thể sử dụng AI tùy theo mức độ trưởng thành, tùy theo độ sẵn sàng và tùy theo chính sách, công việc của mình.

Thứ hai là có cơ chế phối hợp công tư để có thể đưa năng lực tính toán đến mọi tầng lớp, mọi nhà nghiên cứu, mọi doanh nghiệp để có thể có một cỗ máy, một nhà máy chung cho toàn bộ sự phát triển về nghiên cứu và phát triển.

Chúng tôi cũng mong muốn được kết hợp vào các hệ thống của Chính phủ sẽ được xây dựng trong thời gian sắp tới.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 15.
Ông Cao Anh Sơn, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel trình bày tham luận làm rõ vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp viễn thông trong tiến trình chuyển đổi số của quốc gia - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Cao Anh Sơn – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel trình bày tham luận với chủ đề "Vai trò của nhà mạng viễn thông thế hệ mới đối với phát triển hạ tầng số tại Việt Nam" nhằm làm rõ vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp viễn thông trong tiến trình chuyển đổi số của quốc gia.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một trong những khâu đột phá quan trọng nhằm tạo bước chuyển mạnh mẽ về năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế số. Trên tinh thần đó, Nghị quyết 57-NQ/TW của Trung ương cũng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phát triển hạ tầng công nghệ số hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng; đồng thời làm chủ các công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây và công nghiệp bán dẫn hay là các cái công nghệ lõi.

Cụ thể hóa các chủ trương lớn, Chính phủ đã triển khai Nghị quyết 71/NQ-CP, Kế hoạch 02-KH/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương. Qua đó, hạ tầng số được xác định là hạ tầng của nền kinh tế, giữ vai trò nền tảng cho phát triển kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Trong bối cảnh đó, cùng với quá trình chuyển đổi số quốc gia, vai trò của nhà mạng viễn thông đã có sự chuyển dịch căn bản. Nhà mạng không chỉ cung cấp các dịch vụ kết nối truyền thống mà đã trở thành lực lượng chủ lực xây dựng, cung cấp các hạ tầng số toàn diện. Hạ tầng này không chỉ đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, an toàn mà còn tạo nền tảng cho các hoạt động kinh tế số, quản lý xã hội và cung cấp các dịch vụ công trên không gian số, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, góp phần hiện thực hóa các chủ trương định hướng lớn của Đảng và Nhà nước.

Năm 2025, Viettel cơ bản đã thực hiện tắt sóng 2G, 3G. Viettel cũng như các nhà mạng đã cơ bản hoàn thành việc tắt sóng 2G vào cuối năm 2024 và đã phổ cập smartphone tại Việt Nam, phủ sóng 5G đến 70% dân số Việt Nam, đưa vào vận hành mạng lưới 22.500 trạm 5G theo Nghị quyết 103/NQ-QH của Quốc hội. Viettel cũng đã triển khai và về đích trước 1 tháng so với kế hoạch triển khai hơn 22.500 trạm 5G. Lũy kế đến thời điểm hiện nay, Viettel đã phát được gần 30.000 trạm 5G tại Việt Nam.

Từ kết quả này, chất lượng dịch vụ di động của Viettel đã góp phần đưa tốc độ di động, tốc độ cố định băng rộng, internet băng rộng của Việt Nam vào top 3 và top 10 thế giới về cố định băng rộng.

Thời gian tới, Viettel tiếp tục đẩy mạnh phát triển hạ tầng viễn thông với mục tiêu đến năm 2030 phủ sóng 5G trên toàn quốc và sẵn sàng cung cấp dịch vụ internet cáp quang tốc độ Gigabit đến mỗi hộ gia đình. Không chỉ dẫn đầu trong nước, Viettel còn đóng vai trò then chốt trong kết nối Việt Nam với thế giới thông qua 5 tuyến cáp quang biển quốc tế với tổng dung lượng khoảng 64 Tbps và đang vận chuyển khoảng 60% thị phần kết nối data quốc tế. Các tuyến này kết nối trực tiếp Việt Nam với các trung tâm kỹ thuật số quan trọng của châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Đặc biệt Viettel đang phấn đấu xây dựng hạ tầng tuyến cáp quang biển Việt Nam đi Singapore.

Không chỉ dẫn đầu trong lĩnh vực viễn thông, Viettel còn tiên phong xây dựng hạ tầng số quốc gia với 15 trung tâm dữ liệu đạt chuẩn quốc tế, quy mô trên 11.000 rack. Trong năm 2025, Viettel đã khởi công 3 trung tâm dữ liệu tại Hòa Lạc, An Khánh ở Hà Nội, Tân Phú Trung (TPHCM). Viettel cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu mở rộng lên khoảng 24 trung tâm dữ liệu với tổng công suất khoảng 560 MW. Bên cạnh đó, Viettel cũng hợp tác với NVIDIA triển khai hạ tầng trung tâm dữ liệu tính toán quy mô lớn, ứng dụng các máy chủ hiệu năng cao với khoảng hơn 6.000 card GPU. Đây cũng là nền tảng quan trọng để phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các dịch vụ số cho thế hệ mới.

Về phát triển khoa học công nghệ, Viettel đặt mục tiêu đến năm 2030 làm chủ toàn bộ khâu thiết kế, sản xuất các sản phẩm chip phục vụ cho quốc phòng, an ninh; đồng thời phát triển một số loại chip chuyên dụng thế hệ mới có tính đột phá như chip trí tuệ nhân tạo và chip IoT. Song song với mục tiêu này, Viettel sẽ đưa vào vận hành nhà máy sản xuất bán dẫn công nghệ cao, từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị bán dẫn, góp phần nâng cao năng lực tự chủ công nghệ cao và đảm bảo an ninh, chủ quyền số quốc gia.

Từ những mục tiêu và định hướng như trên, Viettel đề xuất và kiến nghị một số nội dung:

Thứ nhất, theo Nghị quyết 57/NQ-TW thì mục tiêu đến năm 2030 là nâng tỉ lệ chi nghiên cứu và phát triển R&D lên mức 2% GDP, tương đương khoảng 9 tỷ USD mỗi năm. Viettel kiến nghị Chính phủ sớm ban hành các hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo việc phân bổ, triển khai và sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách này. Trong đó cần tập trung ưu tiên cho các chương trình, dự án nghiên cứu công nghệ có vai trò nền tảng, bao trùm, các hoạt động lan tỏa lớn như công nghiệp bán dẫn, công nghệ vệ tinh tầm thấp, các công nghệ lưỡng dụng phục vụ cho quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế.

Thứ hai, về cơ chế tiếp cận và chuyển giao công nghệ tiên tiến ở nước ngoài, Viettel đề xuất nghiên cứu triển khai các cơ chế đặc biệt trong việc tiếp cận, nghiên cứu và mua các công nghệ tiên tiến, công nghệ lõi của nước ngoài. Từ kinh nghiệm thực tiễn, Viettel nhận thấy một số vướng mắc lớn hiện nay là việc đánh giá và xác định giá trị các công nghệ mang tính bí mật, độc quyền, khó tham chiếu và so sánh trên thị trường. Do đó, Viettel kiến nghị Chính phủ và các bộ, ban, ngành sớm ban hành hướng dẫn về nguyên tắc, phương pháp đánh giá và xác định giá trị công nghệ trong quá trình chuyển giao, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, tiếp nhận, làm chủ các công nghệ của nước ngoài.

Thứ ba, về hình thành các quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược, theo Nghị quyết 57 về giải pháp hình thành các quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược, ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực then chốt như quốc phòng, không gian, năng lượng, trí tuệ nhân tạo, thông tin tín hiệu đường sắt. Viettel kiến nghị Chính phủ sớm triển khai việc hình thành và ban hành cơ chế vận hành quỹ để kịp thời triển khai các nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong chiến lược quốc gia về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 16.
Ông Phan Mạnh Hà, Giám đốc Đối ngoại Shopee Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Phan Mạnh Hà, Giám đốc Đối ngoại Shopee Việt Nam chia sẻ về cơ hội, thách thức, công thức thành công và các sáng kiến mới nhất tại thị trường Việt Nam để đưa MSMEs Việt vươn ra thị trường ASEAN qua mô hình Shopee quốc tế. Đại diện Shopee cho biết, trong 10 năm qua, Shopee đã đồng hành cùng hơn 2 triệu doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs) khu vực Đông Nam Á trong việc chuyển đổi số thành công.

Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn triển khai cùng Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số (iDEA), Bộ Công Thương tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy xuất khẩu trực tuyến đang trở thành động lực tăng trưởng mới, giúp doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là MSMEs mở rộng thị trường nhanh hơn, chi phí thấp hơn, và bền vững hơn.

Đông Nam Á đang trở thành một trong những thị trường sôi động nhất thế giới về thương mại điện tử. Theo số liệu thống kê của Shopee, doanh thu thương mại điện tử của ASEAN trong 5 năm qua đã tăng trưởng hai con số và đến năm 2024 đạt được 128,4 tỷ USD. Đây là một con số lớn, bởi vậy cơ hội cho doanh nghiệp Việt thông qua thương mại điện tử rất lớn.

Xác định được nhu cầu cũng như tiềm năng đấy, từ năm 2022 cho đến nay, Shopee đã đưa hơn 350.000 doanh nghiệp Việt sang thị trường ASEAN, có 1.000 thương hiệu Việt xuất khẩu thông qua nền tảng Shopee Quốc tế. Điều này cho thấy MSMEs Việt Nam đang trở thành động lực quan trọng để xuất khẩu hàng Việt thông qua phương thức thương mại điện tử.

Cơ hội xuất khẩu trực tuyến của Việt Nam lớn hơn bao giờ hết bởi theo báo cáo Market Research Vietnam, thương mại điện tử xuyên biên giới của Việt Nam tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới, hằng năm đạt tốc độ tăng trưởng từ 28-30%. Đây là một con số ấn tượng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động.

Chúng tôi nhận thấy rằng trong thời điểm hiện nay, có 4 yếu tố then chốt để tạo nên "thời điểm vàng" cho xuất khẩu thương mại điện tử:

Thứ nhất về thị trường: ASEAN có mức tăng trưởng thương mại điện tử mạnh mẽ nhất toàn cầu, nhu cầu mua hàng xuyên biên giới tăng nhanh.

Thứ hai về thị hiếu: Người tiêu dùng trong khu vực ngày càng ưa chuộng sản phẩm "Made in Vietnam" nhờ chất lượng và giá trị vượt trội.

Thứ ba về nội lực: MSME Việt đang chuyển đổi số mạnh mẽ, nhanh chóng thích ứng với livestream, marketing số và các công cụ AI.

Thứ tư về chính sách: Chính phủ Việt Nam tích cực thúc đẩy thương mại điện tử và xuất khẩu số thông qua hợp tác với nền tảng như Shopee hay là các nền tảng lớn khác.

Tất cả những yếu tố này cho thấy xuất khẩu trực tuyến không chỉ là cơ hội mà là bước phát triển tất yếu để MSME Việt Nam mở rộng thị trường và nâng tầm vị thế trên bản đồ kinh tế số khu vực.

Vì sao xuất khẩu trực tuyến mà không phải xuất khẩu truyền thống? Chúng tôi thấy rằng đối với thị trường xuất khẩu truyền thống thì MSMEs đang đối mặt với 3 thách thức lớn về vận hành và chuỗi cung ứng; về thuế quan, các thủ tục phi thuế quan; về xây dựng thương hiệu và marketing.

Nhưng phần lớn những khó khăn đó có thể được tháo gỡ nếu dịch chuyển sang mô hình xuất khẩu trực tuyến, phù hợp với xu thế thương mại số và hội nhập khu vực.

Thách thức đầu tiên - Vận hành và chuỗi cung ứng: MSME Việt Nam nhìn chung có hệ sinh thái sản xuất phân mảnh. Họ không có đủ nguồn lực để tự thiết lập kho quốc tế hoặc tích hợp logistics xuyên biên giới. Điều này khiến việc mở rộng thị trường quốc tế theo cách truyền thống khó thực hiện.

Thách thức thứ hai - Thuế và hải quan: Xuất khẩu truyền thống đòi hỏi quản lý nhiều loại giấy tờ khác nhau. Thuế quốc tế, VAT và nhiều loại phí liên quan có sự thay đổi tùy thị trường, gây phức tạp cho MSME. Nếu không có đơn vị hỗ trợ, phần lớn doanh nghiệp nhỏ không đủ nguồn lực chuyên môn để xử lý.

Thách thức thứ ba - Xây dựng thương hiệu và marketing: Để bán được hàng ở thị trường nước ngoài, thương hiệu phải có độ nhận diện và nội dung phù hợp bản địa. MSME thường gặp rào cản ngôn ngữ, thiếu nguồn lực marketing xuyên biên giới, và thiếu đội ngũ chăm sóc khách hàng quốc tế. Điều này hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt tại các thị trường lớn trong khu vực.

Những khó khăn này chính là lý do xuất khẩu trực tuyến trở thành giải pháp chiến lược cho MSME. Với mô hình nền tảng như Shopee, doanh nghiệp không cần tự lo về logistics quốc tế, thuế – hải quan hay bản địa hóa nội dung; mọi thứ đều được hỗ trợ ở mức hệ thống. Tức là doanh nghiệp có thể tập trung vào điều quan trọng nhất: Sản phẩm và khách hàng.

Một trong những đóng góp lớn nhất của Shopee cho xuất khẩu Việt Nam là đơn giản hóa vận hành.

Thứ nhất - Hệ thống tích hợp: Nhà bán chỉ quản lý từ một trung tâm duy nhất, dù bán ở Việt Nam hay Singapore/Philippines/Malaysia.

Thứ hai - Logistics và thủ tục quốc tế: Shopee xử lý trọn gói vận chuyển quốc tế, khai báo hải quan, giao hàng tận tay người mua nước ngoài.

Thứ ba - Dịch thuật và chăm sóc khách hàng: Mô tả sản phẩm và chat được tự động dịch sang ngôn ngữ địa phương, giúp nhà bán giao tiếp dễ dàng với người mua ASEAN.

Tất cả nhằm giúp MSME Việt giảm rủi ro, giảm chi phí và tập trung vào điều quan trọng nhất: Sản phẩm và tăng trưởng.

Tháng 11 vừa qua, Shopee cùng với Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (iDEA) của Bộ Công thương đã ký một biên bản ghi nhớ để chính thức triển khai sáng kiến quốc gia về xuất khẩu số. Sáng kiến này có 3 trụ cột chính:

Gian hàng Quốc gia Việt Nam trên Shopee Quốc tế, hiện diện tại Malaysia, Philippines, Thái Lan, giúp quảng bá sản phẩm Việt đến toàn khu vực.

Chuỗi sự kiện xúc tiến số quy mô ASEAN, Vietnam Digital Export Week và ASEAN Sale with Vietnam Brand, giúp tăng độ phủ và nhận diện thương hiệu Việt.

Đào tạo hơn 2.000 MSME: Nội dung tập trung vào dữ liệu, vận hành, AI, livestream để tối ưu sản phẩm nhằm giúp MSME tự tin bước vào thị trường quốc tế.

Trong khuôn khổ hợp tác, Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số (iDEA) Bộ Công Thương và Shopee Việt Nam sẽ phối hợp triển khai chuỗi hoạt động hỗ trợ toàn diện cho MSMEs Việt Nam tham gia bán hàng quốc tế, từ hạ tầng, đào tạo đến xúc tiến thương mại với 3 nội dung trụ cột chính, bao gồm: Phát triển Gian hàng Việt Nam trên Shopee Quốc tế. Gian hàng Việt Nam là trang đích xúc tiến xuất khẩu trực tuyến, được xây dựng nhằm quảng bá các sản phẩm chính hãng, chất lượng cao của doanh nghiệp MSME Việt Nam đến người tiêu dùng tại các quốc gia ASEAN. Tăng cường hiện diện trực tuyến và năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên các sàn thương mại điện tử khu vực; thúc đẩy tiêu dùng nội khối ASEAN đối với hàng hóa có xuất xứ Việt Nam.

Trong giai đoạn 2026–2028, chương trình đặt ra 5 mục tiêu trọng tâm. Đó là đào tạo hơn 2.000 MSME Việt tham gia chương trình xuất khẩu; phổ cập năng lực xuất khẩu trực tuyến đến doanh nghiệp trên toàn quốc; tổ chức thường niên Vietnam Digital Export Week & ASEAN Sale with Vietnam Brand; đẩy mạnh sự hiện diện của thương hiệu Việt tại các sàn thương mại điện tử ASEAN; tạo nền dữ liệu thực tiễn hỗ trợ Bộ Công Thương xây dựng chính sách xuất khẩu số.

Đây là mục tiêu dài hạn hướng đến một nền kinh tế số nơi doanh nghiệp Việt chủ động - tự tin - dẫn dắt thị trường quốc tế. Shopee cam kết tiếp tục hợp tác chặt chẽ để đưa sản phẩm Việt, thương hiệu Việt, và câu chuyện Việt ra thị trường quốc tế thông qua mô hình xuất khẩu trực tuyến.Chúng tôi tin rằng, với sự chung tay giữa Chính phủ và doanh nghiệp, Việt Nam sẽ trở thành điểm sáng của xuất khẩu số trong ASEAN giai đoạn 2026–2030.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 17.
ông Phạm Kim Hùng, Founder & CEO, Công ty cổ phần Base Enterprise, chia sẻ về hành trình chuyển đổi AI cho doanh nghiệp Việt Nam và chinh phục thế giới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tham luận tại diễn đàn về hành trình chuyển đổi AI cho doanh nghiệp Việt Nam và chinh phục thế giới, ông Phạm Kim Hùng, Founder & CEO, Công ty cổ phần Base Enterprise, cho biết: Sau hơn 10 năm thành lập, Base hiện có nửa triệu người lao động sử dụng các ứng dụng hằng ngày. Đại diện Base Enterprise chia sẻ ba câu chuyện về cách Base đồng hành cùng các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ nhất là một công ty con của Tập đoàn Cao su Việt Nam đang hoạt động tại Campuchia với hơn 1.000 lao động. Đây là những công nhân làm việc giữa rừng, không có Wi-Fi, không có internet, và không quen sử dụng phần mềm hay ứng dụng phức tạp. Họ chăm sóc từng cây cao su để lấy mủ và báo cáo sản lượng. Trước đây, tất cả các báo cáo này đều được ghi lại bằng giấy, ký tên, sau đó nộp về công ty. Một đơn vị sau đó phải tổng hợp báo cáo sản lượng hằng ngày theo vườn, theo đội. Các số liệu báo cáo cá nhân có thể lên tới hàng nghìn, hàng chục nghìn báo cáo mỗi ngày.

Cách thức Base đưa ra giải pháp là sử dụng AI để đọc hiểu và chuyển đổi toàn bộ các giấy tờ này thành dữ liệu số. Việc này tự động tổng hợp thành các báo cáo theo ngày, theo vườn, theo đội, giảm hàng trăm giờ nhập liệu mỗi tháng và loại bỏ sai sót, đảm bảo ghi nhận thành quả lao động của người công nhân. Các doanh chủ tại Việt Nam khi nói về AI không chỉ quan tâm đến khái niệm mà thực sự mong muốn thấy hiệu quả. Họ muốn AI là một thứ gì đó đơn giản, hiệu quả và chạm đến những điểm nhỏ nhất trong quá trình vận hành. Đó cũng là mục tiêu của Base khi triển khai AI cho các doanh nghiệp Việt Nam. Mỗi điểm chạm là một cơ hội để công nghệ, AI thay đổi, thay thế và xử lý nhanh hơn phương thức truyền thống. Thực tế, khi các doanh nghiệp áp dụng Base AI, họ có thể hoàn thành trên dưới 1.000 tác vụ mỗi tháng, tạo ra kết quả thiết thực và chính xác.

Câu chuyện thứ hai về AI cho các nghiệp vụ có chuyên môn cao qua ví dụ là một đơn vị đã thi công nhiều dự án cho Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN). Khách hàng đến với Base với bài toán cụ thể: Họ muốn có một nhân sự AI có thể tự động chuẩn bị hồ sơ năng lực đấu thầu. Đây là tác vụ tốn nhiều nhân sự trình độ cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Base đã đồng hành cùng khách hàng chuẩn hóa quy trình xây dựng hồ sơ năng lực thầu, bao gồm: Tìm kiếm các gói thầu phù hợp trên hệ thống đấu thầu quốc gia; xây dựng hồ sơ năng lực thầu dựa trên yêu cầu cụ thể của từng gói thầu; và tự động hóa việc xây dựng hồ sơ, bám sát năng lực thực tế của doanh nghiệp. Khác với một điểm chạm AI đơn giản, nghiệp vụ này đòi hỏi quá trình phân tích, đánh giá và tổng hợp dữ liệu phức tạp, có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng. Nếu thực hiện thủ công, nhiều lỗi có thể xảy ra. Giờ đây, với AI Agent, quá trình này có thể rút ngắn xuống còn vài phút.

Đó là câu chuyện về việc Base đồng hành cùng doanh nghiệp Việt Nam tạo ra các AI Agent có chuyên môn cao để thực hiện các nghiệp vụ phức tạp. Agent giống như những người lao động ảo có thể làm việc 24/7 và cộng tác cùng con người. Trung bình, mỗi doanh nghiệp có thể tạo ra từ 10-100 người lao động ảo như vậy, và hơn 20.000 agent đã được Base và các doanh nghiệp tạo ra. Càng nhiều agent tham gia vào vận hành, chất lượng xử lý càng cao. Điều quan trọng nhất là 10.000 doanh nghiệp này đã và đang chuyển đổi số trên nền tảng Base, và việc chuyển đổi sang AI là bước tiếp theo. Họ có thể tái sử dụng toàn bộ dữ liệu vận hành hiện có để đảm bảo dữ liệu AI tạo ra có ý nghĩa và gắn chặt với quy trình vận hành nội bộ.

Câu chuyện thứ ba liên quan đến AI cho sáng tạo. Khác với các hệ thống phần mềm cũ, AI mở ra một chân trời mới trong việc ứng dụng công nghệ, thay đổi cách con người sử dụng công nghệ. Nếu trước đây, phần mềm được xây dựng dựa trên các tính năng cứng, nghĩa là người sử dụng phải tuân theo cách phần mềm được thiết kế, thì giờ đây, AI mang lại khả năng sáng tạo gần như vô hạn. Với AI, chúng ta có thể ra lệnh trực tiếp cho phần mềm, huấn luyện để phần mềm thực hiện đúng theo mong muốn của người dùng. Đây là điều đặc biệt mà trước kỷ nguyên AI chưa từng thực hiện được. AI có thể sáng tạo ra các quy trình làm việc. Một doanh nghiệp có thể mất hàng tuần hoặc hàng tháng để thiết kế một quy trình làm việc nội bộ tối ưu.

Giờ đây, AI có thể sinh ra hàng nghìn quy trình số khác nhau dựa trên hướng dẫn hoặc văn bản cụ thể của doanh nghiệp, và phần mềm sẽ tạo ra những quy trình đó ngay lập tức. Tiếp theo, AI có thể chấm điểm các quy trình hoàn thành nghiệp vụ để tối ưu hóa cả quy trình và hoạt động nội bộ. AI cũng có thể giúp sáng tạo layout cho các báo cáo điều hành chỉ bằng một câu lệnh đơn giản, dựa trên dữ liệu vận hành sẵn có của doanh nghiệp, không phải dữ liệu ngẫu nhiên. Điều quan trọng nhất với các doanh nghiệp sử dụng phần mềm trên Base là họ đã có sẵn dữ liệu vận hành thời gian thực, gắn chặt với quá trình vận hành hàng ngày. Cuối cùng, AI có thể được huấn luyện để thực thi theo đúng quy định, quy chuẩn mà doanh nghiệp đề ra, giúp điều chỉnh cách thức vận hành của phần mềm theo mong muốn.

Trên hành trình phát triển, Base đã đúc rút được nhiều bài học và ý tưởng từ các doanh chủ, người lao động Việt Nam. AI có thể tự động hóa nhiều thứ, nhưng hành trình đưa AI, chuyển đổi số vào đời sống doanh nghiệp Việt Nam không thể tự động hóa. Hành trình đó vẫn cần đôi chân và trái tim của con người. Trung bình, mỗi năm, một nhân sự trong khối hỗ trợ khách hàng của Base đi 10.000 km đường bộ, từ bản làng đến miền Tây sông nước, từ các tập đoàn lớn đến các hợp tác xã nhỏ, tận tâm cùng doanh nghiệp chuyển đổi số và chuyển đổi AI. Sự khác biệt lớn nhất của Base là biến AI từ những câu chuyện thành giá trị kinh doanh cụ thể, gắn liền với vận hành, thiết thực và trên hết là sự đồng hành bằng cả trái tim.

Base mong muốn thực hiện những việc rất nhỏ, gắn chặt với các doanh nghiệp. Ví dụ, khi thăm một doanh nghiệp thủy điện ở vùng xa xôi, chúng tôi mất gần một ngày di chuyển từ trung tâm thành phố đến nơi có trung tâm điều hành chuyển đổi số. Những người sử dụng phần mềm ở đó không phải là người trẻ hay am hiểu công nghệ, mà là những người 60-70 tuổi, có thể chưa từng dùng phần mềm. Đó là một hành trình cần sự đồng hành từ trái tim. Base rất may mắn có cơ hội đồng hành cùng các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả mới chỉ là bước khởi đầu. Hành trình chuyển đổi số cho 10.000 khách hàng đến hành trình chuyển đổi AI là một quá trình dài. Hiện tại, Base mới chỉ giới thiệu khoảng 10% khách hàng của mình.

AI đang thay đổi toàn bộ thế giới và ngành công nghệ. AI là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam vươn mình trên bản đồ công nghệ toàn cầu. Chúng ta thực sự phải mang AI ra thế giới để cạnh tranh sòng phẳng với các sản phẩm quốc tế. Đó là lý do khoảng 3 năm trước, Base đã ấp ủ khát vọng đặt những bước chân đầu tiên ra toàn cầu. Khi đó, Base cũng rất may mắn được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng ủng hộ, và cũng là năm Base nhận giải Make in Vietnam với hơn 1.000 khách hàng.

Tuy nhiên, trong những ngày đầu mang Base ra nước ngoài, chúng tôi đã không thành công. Chúng tôi nhận ra kiến trúc phần mềm kiểu cũ không phù hợp để tạo ra một nền tảng AI mạnh mẽ và toàn diện. AI tạo ra cơ hội nhưng cũng thách thức sống còn, ngay cả với các doanh nghiệp công nghệ như Base. Ngay cả khi đã làm ra nhiều sản phẩm phần mềm, chúng trở nên lỗi thời, không phù hợp với nền tảng AI mới. Khi đó, chúng tôi đã nhìn lại toàn bộ hành trình và quyết định tái cấu trúc toàn bộ kiến trúc phần mềm. Sau hơn 10 năm phát triển, chúng tôi gần như viết lại toàn bộ mã code để tạo ra một kiến trúc mới phù hợp hơn với AI. Một phần quan trọng là Base chuyển đổi từ hệ thống phần mềm hướng tính năng sang hướng dịch vụ theo đầu ra, đảm bảo ba tác nhân là con người, agent và phần mềm có thể phối hợp linh hoạt. Đến giữa năm 2025, Base đã hoàn thành công cuộc chuyển đổi này sau gần 3 năm, viết lại gần như toàn bộ.

Ngày hôm nay, Base đã thương mại hóa sản phẩm tại hơn 10 quốc gia, trong đó có Australia, Malaysia, Singapore và nhiều nước khác. Vẫn còn một chặng đường dài phía trước, và chúng tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ báo cáo Base đã có mặt tại 100 quốc gia, mang trí tuệ Việt Nam, trí tuệ AI của người Việt để chinh phục hàng triệu người dùng trên khắp thế giới.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 18.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Diễn đàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến tại Diễn đàn để bổ sung, hoàn thiện Chương trình Phát triển kinh tế số, xã hội số giai đoạn 2026-2030 để thống nhất triển khai thực hiện từ Trung ương đến cơ sở.

Cơ bản nhất trí với các tham luận, ý kiến phát biểu tại Diễn đàn, Thủ tướng nhấn mạnh một số nội dung về những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế; nguyên nhân và các bài học kinh nghiệm; bối cảnh, quan điểm, mục tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới.

Nhấn mạnh chuyển đổi số là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu, Thủ tướng đánh giá khái quát, trong giai đoạn vừa qua, chúng ta đã tạo nền tảng, đổi mới tư duy, phương pháp luận, cách tiếp cận, nâng cao nhận thức, cách thức hành động, triển khai quyết liệt; cần rút kinh nghiệm để làm tốt hơn trong giai đoạn tới, đặc biệt là huy động nguồn lực để phát triển kinh tế số, xã hội số. Thủ tướng nêu rõ, muốn phát triển kinh tế số thì phải có xã hội số, muốn có xã hội số thì phải có công dân số.

Người đứng đầu Chính phủ chỉ rõ những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế số, xã hội số thời gian qua.

Thứ nhất, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số và xã hội số có sự chuyển biến rõ nét về cả nhận thức, tư duy và hành động, lan tỏa đến "mọi nhà, mọi người", thẩm thấu vào mọi mặt hoạt động của đời sống, xã hội, củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Thực tiễn đã chứng minh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh rất phù hợp với phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam - thông minh, có tư duy đổi mới sáng tạo, cần cù, ham học hỏi và có khả năng trưởng thành, lớn mạnh với tinh thần "Thánh Gióng".

Thứ hai, thể chế, cơ chế, chính sách được tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhằm tháo gỡ "điểm nghẽn", khơi thông nguồn lực cho phát triển. Giai đoạn 2021-2025, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét, thông qua 28 dự án luật và 01 nghị quyết để tạo đột phá cho phát triển và ban hành 91 nghị định thi hành các luật liên quan.

Thứ ba, về hạ tầng số đã có bước tiến về năng lực, công nghệ và chất lượng: Đẩy mạnh triển khai dịch vụ 5G (đã lắp đặt gần 24.000 trạm 5G, phủ sóng hầu hết các đô thị, đạt tỉ lệ 58,9% dân số cả nước); tốc độ Internet di động tăng 50 bậc, năm 2025 lọt vào top 20 thế giới, vượt qua nhiều quốc gia phát triển; dự án Trung tâm dữ liệu quốc gia số 1 đã đi vào vận hành trong năm 2025, đang nghiên cứu hình thành các Trung tâm khác; đến nay, đã đưa vào khai thác 03 tuyến cáp quang biển và trên đất liền, tăng năng lực kết nối quốc tế lên gấp hơn 02 lần so với cuối năm 2020; đang tích cực triển khai dự án Internet vệ tinh Starlink.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 19.
Thủ tướng nhấn mạnh chuyển đổi số là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ tư, kinh tế số có bước phát triển mạnh mẽ, ngày càng khẳng định vai trò là một động lực tăng trưởng mới quan trọng.

Số lượng doanh nghiệp công nghệ số tăng nhanh từ 58.000 năm 2020 lên khoảng 80.000 năm 2025. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghệ số tăng mạnh năm 2025 ước đạt 172 tỷ USD, tăng gấp hơn 1,7 lần so với năm 2020. Thương mại điện tử bứt phá ngoạn mục, ước đạt 36 tỷ USD năm 2025, tăng 3 lần so với năm 2020, tăng trưởng 22-25%/năm, cao nhất khu vực.

Thanh toán không dùng tiền mặt phổ cập đến mọi doanh nghiệp, mọi nhà, mọi người. Đến cuối năm 2025, ước giá trị thanh toán không dùng tiền mặt gấp 26 lần GDP với hơn 20,2 tỷ giao dịch/năm..

Công tác quản lý thuế, hóa đơn điện tử được triển khai quyết liệt, hiệu quả, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước. Cuối năm 2025, đã xử lý 8,5 tỷ hóa đơn điện tử (tăng 3,4 lần so với năm 2022); đã có 368.000 doanh nghiệp, hộ kinh doanh đăng ký sử dụng với 4,8 tỷ hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Thu thuế từ thương mại điện tử đạt 208,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5 lần so với năm 2022.

Cùng với đó là chuyển đổi số trong các lĩnh vực điện, năng lượng, giao thông vận tải…

Thứ năm, xã hội số phát triển rộng khắp trên tinh thần không ai bị bỏ lại phía sau, người dân được thụ hưởng ngày càng nhiều các dịch vụ, tiện ích số:

Về giáo dục và đào tạo, trong đại dịch COVID-19, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển đổi từ học "trực tiếp" sang "trực tuyến" với phương châm "tạm dừng đến trường nhưng không dừng học". Các nền tảng đào tạo trực tuyến, trong đó có Phong trào "Bình dân học vụ số" thu hút gần 40 triệu lượt người.

Về y tế, 100% các cơ sở y tế đã triển khai khám chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân; đã có gần 900 bệnh viện triển khai bệnh án điện tử; nhiều dữ liệu y tế được kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Về bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện chi trả trợ cấp qua tài khoản ngân hàng cho khoảng 3 triệu người thuộc đối tượng bảo trợ xã hội và người có công với cách mạng với trên 40 nghìn tỷ đồng; tích hợp hơn 17 triệu tài khoản an sinh xã hội trên nền tảng VNeID..

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 20.
Thủ tướng nêu rõ, muốn phát triển kinh tế số thì phải có xã hội số, muốn có xã hội số thì phải có công dân số - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng và kết quả đạt được của các bộ, ngành, địa phương, nhất là Bộ Khoa học và Công nghệ; sự đồng lòng, ủng hộ, tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp đã có nhiều đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế số, xã hội số thời gian qua, góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của đất nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong phát triển kinh tế số, xã hội số thời gian qua.

Theo đó, thể chế, cơ chế, chính sách về kinh tế số, xã hội số, dữ liệu số chưa đồng bộ, đầy đủ. Phát triển hạ tầng số chưa đồng đều; nhiều khu vực miền núi, hải đảo vẫn còn khó khăn trong tiếp cận internet và dịch vụ số; triển khai hạ tầng 5G và Internet vệ tinh chưa đạt mục tiêu đề ra. Nguồn nhân lực số còn yếu và thiếu. Năng lực đổi mới sáng tạo và nghiên cứu - phát triển (R&D) còn khiêm tốn.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với các khó khăn, thách thức lớn trong chuyển đổi số, nhất là về tài chính, nhân lực, văn hóa, nhận thức và công nghệ. Bảo đảm an ninh mạng ở nhiều nơi còn chưa được quan tâm đúng mức; lừa đảo trực tuyến, tấn công mạng, lộ lọt thông tin cá nhân vẫn còn diễn biến rất phức tạp.

Về nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, Thủ tướng cho rằng, nguyên nhân lớn nhất là người đứng đầu ở một số nơi thiếu quan tâm về lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư, tạo động lực, truyền cảm hứng cho bộ máy; thể chế, cơ chế chính sách vẫn còn nhiều vướng mắc trong triển khai thực hiện và chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn; xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, nên nguồn lực cho chuyển đổi số, hạ tầng số và đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) còn khó khăn; công tác tổ chức thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, việc phân công nhiệm vụ chưa đảm bảo nguyên tắc "6 rõ"; đầu tư còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; phát triển nhân lực và đào tạo còn chưa bắt kịp tốc độ thay đổi công nghệ…

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 21.
Thủ tướng thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong phát triển kinh tế số, xã hội số thời gian qua - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh một số bài học kinh nghiệm quan trọng. Theo đó, người đứng đầu các cấp, các ngành, các cơ quan phải tiên phong, gương mẫu; bám sát đường lối, chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm.

Tổ chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, phù hợp thực tiễn Việt Nam và thế giới, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, đồng bộ, khoa học, kịp thời, hiệu quả, phân công "6 rõ", phối hợp nhịp nhàng, kiên quyết loại bỏ tư duy cục bộ, "mạnh ai nấy làm" hay đầu tư dàn trải, manh mún; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, là chủ thể và động lực phát triển.

Xác định dữ liệu là "tài nguyên chiến lược" của kỷ nguyên số; thay đổi tư duy từ "giữ làm của riêng" sang "kết nối, chia sẻ để tạo ra giá trị chung, giá trị mới, bảo đảm "đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, liên thông, dùng chung", gắn chặt với bảo đảm an ninh, an toàn và bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo đồng thuận xã hội. Chuyển đổi số là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, biến mỗi người dân thành một "công dân số", mỗi doanh nghiệp thành một "doanh nghiệp số", chung tay xây dựng quốc gia số.

Phân tích bối cảnh, tình hình và các mục tiêu thời gian tới, Thủ tướng cho biết Đảng, Nhà nước đã xác định 2 mục tiêu chiến lược 100 năm, tăng trưởng kinh tế 2 con số những năm tới. Do đó, phải quán triệt quan điểm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp tiên phong, địa phương đi đầu, người dân hưởng ứng" trong xây dựng kinh tế số, xã hội số, công dân số; với tinh thần xã hội số là nền tảng, kinh tế số là động lực, người dân là trung tâm.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 22.
Thủ tướng yêu cầu trước hết, tất cả các chủ thể, các bộ ngành, địa phương, cơ quan, đều phải thúc đẩy phát triển xã hội số, kinh tế số, công dân số - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng yêu cầu các chủ thể liên quan cần quán triệt, thực hiện "5 tiên phong", "5 có" và "5 không".

"5 tiên phong" gồm tiên phong trong xây dựng thể chế, tiên phong trong phát triển công nghệ, tiên phong trong xây dựng hạ tầng số, tiên phong trong phát triển cơ sở dữ liệu, tiên phong trong thực hiện trách nhiệm xã hội.

Tinh thần "5 có" gồm: Có hạ tầng số hiện đại, đồng bộ, thông suốt; có dữ liệu "Đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất – liên thông - dùng chung"; có nguồn nhân lực số chất lượng cao và phổ cập kỹ năng số toàn dân; có nhiều doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam phát triển mạnh, hiệu quả; có môi trường số an toàn, văn minh, nhân văn, hiện đại.

Tinh thần "5 không" gồm: Không giấy tờ - không tiền mặt - không địa giới hành chính trong giao dịch; không giới hạn, không có điểm dừng trong phát triển; không tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, lợi ích nhóm; không manh mún, cát cứ, khép kín trong vận hành; không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu trước hết, tất cả các chủ thể, các bộ ngành, địa phương, cơ quan, đều phải thúc đẩy phát triển xã hội số, kinh tế số, công dân số; đẩy mạnh chuyển đổi số ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển xã hội số bao trùm, nhân văn.

Về công nghiệp, đẩy mạnh số hóa và tái cấu trúc các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn bằng sức mạnh của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Sớm hình thành các "Tổ hợp công nghiệp kỹ thuật số" quy mô lớn, tạo giá trị gia tăng và sức lan tỏa lớn.

Phát triển "Nông nghiệp công nghệ cao - Nông dân số - Nông thôn thông minh". Gắn kết chặt chẽ xây dựng nông thôn mới với phát triển làng, xã kỹ thuật số. Xây dựng các sản phẩm nông nghiệp thương hiệu Việt Nam mới, độc đáo, tiêu chuẩn cao, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi xanh.

Về dịch vụ, thương mại, tập trung xây dựng các hệ sinh thái dịch vụ số thông minh, hiện đại; lấy tài chính, logistics và du lịch làm mũi nhọn đột phá. Kích cầu tiêu dùng trên môi trường số, phát triển mạnh mẽ thương mại điện tử; thanh toán không dùng tiền mặt. Phát động, triển khai hiệu quả chương trình "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam trên không gian số".

Đẩy mạnh chuyển đổi số để ''tối ưu hóa" các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục... với sổ sức khỏe điện tử, học bạ điện tử, cải cách, cắt giảm tối đa thủ tục, hồ sơ hành chính. Xây dựng mạng lưới an sinh xã hội số minh bạch, hiệu quả trên tinh thần "không ai bị bỏ lại phía sau". Đồng thời, kiến tạo các không gian văn hóa số đa dạng, giữa gìn bản sắc, làm giàu thêm đời sống văn hóa, tinh thần và để người dân được hạnh phúc hơn trong kỷ nguyên số.

Trong lĩnh vực môi trường, Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ để chuyển trạng thái từ bị động, chống đỡ sang chủ động, thích ứng.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 23.
Thủ tướng yêu cầu các chủ thể liên quan cần quán triệt, thực hiện "5 tiên phong", "5 có" và "5 không" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ hai, để hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách bảo đảm thông thoáng, trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia, Thủ tướng chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình phát triển kinh tế số, xã hội giai đoạn 2026-2030 trong tháng 12/2025, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng và trình ban hành Khung Kinh tế dữ liệu quốc gia và lộ trình triển khai, trong đó xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu công - tư và khung pháp lý về định giá, thương mại hóa, khai thác và quản trị dữ liệu, hoàn thành trong tháng 1/2026; triển khai đồng bộ các giải pháp thu hút nguồn vốn phát triển kinh tế số, xã hội theo nguyên tắc lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư và kích hoạt mọi nguồn lực xã hội.

Thứ ba, phát triển hạ tầng số, nhân lực số quốc gia; khẩn trương hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia và của các ngành, địa phương. Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp triển khai các chương trình đào tạo với hình thức đa dạng; cùng với các trường, các doanh nghiệp công nghệ số nhanh chóng triển khai có hiệu quả Chương trình học từ làm việc thực tế. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ và các đơn vị liên quan xây dựng Báo cáo tổng thể về các ngành, nghề bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi trí tuệ nhân tạo để xây dựng kế hoạch đào tạo lại, nâng cấp, chuyển đổi kỹ năng cho người lao động, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I/2026.

Thứ tư, để phát triển doanh nghiệp số Việt Nam, Thủ tướng giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính đẩy mạnh triển khai Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 01/2026, trong đó có giải pháp xây dựng các nền tảng ứng dụng trí tuệ nhân tạo của Việt Nam với giá thành rẻ, dễ tiếp cận, dễ sử dụng.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc thù hình thành doanh nghiệp dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, đồng thời các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai và cam kết năng lượng xanh phải được thực hiện.

Thứ năm, về an ninh mạng, chủ quyền số và thúc đẩy hợp tác quốc tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng triển khai đồng bộ các giải pháp để bảo đảm an ninh mạng quốc gia, dữ liệu quốc gia và bảo vệ dữ liệu cá nhân, đưa Việt Nam tiên phong trong thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc (Công ước Hà Nội) về chống tội phạm mạng. Bộ Công Thương đẩy nhanh tiến độ, sớm kết thúc đàm phán và hoàn thành thủ tục để Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp định Đối tác Kinh tế số (DEPA).

Thứ sáu, về phát triển xã hội số, bảo vệ các nhóm yếu thế, Thủ tướng giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với doanh nghiệp công nghệ (viễn thông, cung cấp nền tảng số) nghiên cứu, xây dựng và tổ chức triển khai hiệu quả các giải pháp giảm thiểu các tác động tiêu cực trên không gian mạng, nhất là cho các nhóm yếu thế (như trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo…, những đối tượng đang là mục tiêu chính của các hành vi lừa đảo, tấn công mạng).

Đẩy mạnh triển khai phong trào "Bình dân học vụ số", các chương trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng an toàn thông tin cho người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, với tinh thần "học tập suốt đời".

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 24.
Thủ tướng đề nghị cùng nhau hành động với tinh thần: "Phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số: Mạnh mẽ - Hiệu quả - Bao trùm - Bền vững – Công bằng – Bình đẳng - Vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc và nhân dân được thụ hưởng thành quả" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Khái quát các nhiệm vụ, giải pháp, Thủ tướng cho rằng các chủ thể liên quan, các bộ ngành, địa phương cần nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, hành động đổi mới sáng tạo, tiếp tục hoàn thiện thể chế, đầu tư cho hạ tầng, đào tạo nhân lực, phối hợp chặt chẽ, bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ số, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong chuyển đổi số.

Tin tưởng Diễn đàn sẽ mang lại hiệu quả tích cực cho các bộ ngành, địa phương, người dân, doanh nghiệp, Thủ tướng đề nghị với khí thế mới, tâm thế mới, quyết tâm mới, các chủ thể liên quan thống nhất nhận thức, cùng nhau hành động với tinh thần: "Phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số: Mạnh mẽ - Hiệu quả - Bao trùm - Bền vững – Công bằng – Bình đẳng - Vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc và nhân dân được thụ hưởng thành quả".

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 25.
Thủ tướng và các đồng chí lãnh đạo bộ, ngành thực hiện nghi thức phát động chương trình "Học từ việc làm thực tế" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tại Diễn đàn, Thủ tướng và các đại biểu đã cùng thực hiện nghi thức phát động chương trình "Học từ việc làm thực tế" - phối hợp 3 Nhà (Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp) do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3- Ảnh 26.
Thứ trưởng Thường trực Bộ Khoa học và Công nghệ Vũ Hải Quân phát biểu tại lễ phát động chương trình "Học từ việc làm thực tế" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu tại lễ phát động, Thứ trưởng Thường trực Bộ Khoa học và Công nghệ Vũ Hải Quân nhấn mạnh: Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, bên cạnh thể chế, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược. Trên tinh thần đó, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Tại Diễn đàn Phát triển Kinh tế số và Xã hội số lần thứ III, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục đại học và các doanh nghiệp chính thức phát động Chương trình "Học từ làm việc thực tế". Chương trình được triển khai trong 10 chuyên ngành, lĩnh vực trọng tâm, gồm: (1) Thương mại điện tử; (2) Du lịch; (3) Vận hành, khai thác cảng biển; (4) Đánh giá, kiểm định chứng chỉ xanh; (5) Quản trị doanh nghiệp số; (6) Công nghệ thông tin; (7) Công nghệ Tài chính; (8) Chuyển đổi số đào tạo nghề (9) Lưu trữ, tạo lập, khai thác dữ liệu số và chuyển đổi số (10) Quản trị chiến lược.

Cách làm cốt lõi của Chương trình là liên kết chặt chẽ "3 nhà": Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp, trong đó: Nhà nước kiến tạo chính sách, chuẩn hóa mô hình hợp tác, kết nối hệ sinh thái số; Nhà trường đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo gắn với thực tiễn; Doanh nghiệp trực tiếp tham gia đào tạo, cung cấp công cụ, nền tảng, dữ liệu, chuyên gia và bài toán thực tế.

Chương trình hướng tới mục tiêu giúp sinh viên học đi đôi với làm, làm trên công cụ thật, dữ liệu thật, bài toán thật, rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và thị trường lao động; đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu của Nghị quyết số 57: đến năm 2030, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân.

Thứ trưởng Vũ Hải Quân khẳng định: "Học từ làm việc thực tế" không chỉ là một chương trình đào tạo, mà là một cam kết hành động của Nhà nước, Nhà trường và Doanh nghiệp trong việc xây dựng lực lượng nhân lực số chất lượng cao, phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước trong kỷ nguyên số./.

Theo baochinhphu.vn
https://baochinhphu.vn/cap-nhat-thu-tuong-pham-minh-chinh-chu-tri-dien-dan-quoc-gia-phat-trien-kinh-te-so-va-xa-hoi-so-lan-thu-3-102251220083417387.htm
Đừng bỏ lỡ
    Đặc sắc
    Nổi bật Người quan sát
    Đọc tiếp
    TỔNG THUẬT: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn quốc gia phát triển Kinh tế số và xã hội số lần thứ 3
    POWERED BY ONECMS & INTECH