Với thị trường điện khí LNG, chuyên gia kinh tế Tạ Đình Thi nhận xét hiện nay Việt Nam có nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển.
Ngành điện gặp nhiều thách thức, thuỷ điện hết dư địa phát triển
TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội nhận định, điện khílà nguồn điện ổn định không bị ảnh hưởng bởi thời tiết so với thủy điện, điện gió, điện mặt trời. Điện khí có tính sẵn sàng cao, công suất lớn, với dải điều chỉnh rộng, thời gian đáp ứng nhanh, giảm thiểu phát thải khí nhà kính CO2, đặc biệt giảm thiểu khí gây ô nhiễm so với các nhà máy điện chạy than và dầu.
“Một thuận lợi quan trọng cho phát triển điện khí LNG ở Việt Nam là Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành đều rất quan tâm đến việc phát triển thị trường LNG. Đây là cơ sở để phát triển hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển của loại nhiên liệu này tại Việt Nam”, ông Thi nhấn mạnh.
TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội. |
Tại COP26, Việt Nam cam kết sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của chính mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế để phấn đấu đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
>>Hiện thực hóa mục tiêu phát triển Điện khí LNG theo Quy hoạch Điện VIII
Để đạt mục tiêu này, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất năng lượng và chú trọng chuyển đổi năng lượng với một lộ trình phù hợp, vừa bảo đảm mục tiêu bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng giảm tối đa gánh nặng chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế và giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Đồng quan điểm trên, chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong nhận xét, trong thời gian tới, ngành điện gặp nhiều thách thức bởi thủy điện hết dư địa phát triển; nhiệt điện than không được phát triển thêm sau năm 2030 theo cam kết với quốc tế; điện sinh khối công suất nhỏ và giá thành không dễ cạnh tranh; điện hạt nhân chưa được xác định cụ thể, trong khi điện khí hydro, amoniac còn nhiều vướng mắc để thương mại hóa.
Theo đó, việc phát triển mạnh mẽ nhiệt điện khí LNG sẽ giúp ngành điện phát triển xanh hơn và hạn chế sự phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỉ lệ khá cao trong hệ thống hiện nay.
>>Nam Định muốn chuyển dự án điện than hơn 2 tỷ USD thành điện khí LNG
Còn theo ông Mai Xuân Ba, đại diện Tổng Công ty khí Việt Nam (PV Gas), Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt tháng 5/2023, phát triển điện khí là nội dung và nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo cung cấp điện cho hệ thống và giảm phát thải khí nhà kính ra môi trường; bù đắp thiếu hụt năng lượng cho hệ thống và đảm bảo đa dạng nguồn cung cấp nhiên liệu; là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, đảm bảo ổn định cung cấp điện cho hệ thống.
Hiện cả nước có 13 dự án điện LNG đã được Thủ tướng phê duyệt trong danh mục các dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư của ngành điện tại Quyết định 500/QĐ-TTg. Đây sẽ là một trong các nguồn giúp bảo đảm cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia.
“Về mặt lợi thế, điện khí có công nghệ tiên tiến, hiệu suất cao, tương đối thân thiện với môi trường, phù hợp với xu thế phát triển bền vững. Đặc biệt, điện khí sẽ kịp thời bổ sung nguồn điện khi các nhà máy điện năng lượng tái tạo không ổn định, hoặc không thể phát điện do thời tiết. Chính vì vậy, điện khí LNG được xem là một trong những giải pháp quan trọng và xu hướng tất yếu trong chính sách bảo đảm an ninh năng lượng. Đặc biệt trong bối cảnh việc khai thác các nguồn tài nguyên truyền thống của Việt Nam như thủy điện, than, dầu khí đang trên đà suy giảm”, đại diện Tổng Công ty khí Việt Nam (PV Gas) khẳng định.
Giá bán LNG vẫn còn cao
Mặt khác, theo ông Mai Xuân Ba, theo Quy hoạch điện VIII, đến năm 2030 có 13 nhà máy điện khí LNG được đưa vào vận hành. Tuy nhiên, phần lớn các nhà đầu tư có xu hướng triển khai dự án theo cấu hình: “1 Trung tâm Điện lực (Nhà máy điện) + 1 Kho cảng nhập LNG”. Điều này, đồng nghĩa với việc có bao nhiêu trung tâm điện lực thì sẽ xuất hiện bấy nhiêu kho cảng nhập LNG phủ kín dọc theo suốt chiều dài bờ biển Việt Nam. Việc này dẫn đến không thể tận dụng hết nguồn lực hạ tầng sẵn có, lãng phí tài nguyên cảng biển, khó kết nối tạo thành một hệ thống hạ tầng LNG tổng thể chung.
>>Tập đoàn Nhật Bản dự kiến đầu tư hàng tỷ USD tại Việt Nam, hé lộ 7 lĩnh vực sẽ được hưởng lợi
Không những vậy, hệ thống đường ống khí hiện nay chỉ tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ và một hệ thống nhỏ ở Bắc Bộ không đảm bảo liên kết vùng nên cần được đầu tư mạnh theo một quy hoạch tối ưu nhằm đảm bảo liên kết vùng, giúp hỗ trợ phân phối linh hoạt khi xuất hiện tình trạng thiếu khí cục bộ. Thông qua hệ thống phân phối khí đã đồng bộ và kết nối chặt chẽ, LNG nhập khẩu, thông qua các kho LNG trung tâm, có thể trở thành nguồn cung ổn định cho tất cả khu vực trong cả nước.
“Dự án LNG cần diện tích đất, mặt nước lớn, các dự án đường ống dẫn khí đi qua nhiều địa bàn dân cư và yêu cầu có diện tích đất lớn để bố trí hành lang tuyến ống theo quy định. Trong khi đó, hiện nay các quy hoạch ngành, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của các tỉnh/thành phố chưa cập nhật phù hợp Quy hoạch điện VIII nên dẫn tới khó khăn liên quan đến việc xin chấp thuận chủ trương đầu tư, thủ tục đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng thỏa thuận địa điểm/hướng tuyến…tốn nhiều thời gian và rủi ro kéo dài tiến độ dự án”, ông Mai Xuân Ba cho hay.
Về mặt cơ chế chính sách, hiện nay chưa có cơ chế chính sách được cơ quan có thẩm quyền thông qua bao gồm chuyển ngang giá khí LNG tái hóa và bao tiêu khối lượng khí từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện, phê duyệt cước phí qua kho và đường ống đưa LNG đến nhà máy điện, nguyên tắc phân bổ LNG nhập khẩu cùng với các nguồn khí nội địa cho các nhà máy điện.
Chưa có đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về LNG để đảm bảo việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật LNG đảm bảo an toàn phù hợp với các thông lệ quốc tế. Vì vậy, cần phải rà soát, cập nhật, bổ sung và xây dựng đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về LNG, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện phát triển các dự án điện khí (LNG) và thị trường LNG trong tương lai.
Ngoài ra, đến năm 2050, nhiệt điện khí trong nước chuyển sang sử dụng LNG chỉ có 7.900 MW (chiếm từ 1,4 – 1,6% tổng công suất các nhà máy điện) trong khi các nguồn nhiệt điện khác bắt buộc phải chuyển hết qua hydro lên đến mức từ 23.430 – 27.930 MW (4,5% - 5% tổng công suất các nhà máy điện). Như vậy, số lượng các dự án khí trong nước/kho cảng LNG mới hoàn thành vào năm 2030, sẽ chỉ có khoảng 20 năm vận hành khi nhà máy điện buộc phải chuyển sang chạy hoàn toàn bằng hydro không nhỏ. Vòng đời dự án ngắn hơn mức tối thiểu thông thường của các dự án khí là 30 năm sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư.
>>Tập đoàn Marubeni (Nhật Bản) sẽ tiếp tục đầu tư hàng tỷ USD vào Việt Nam
Ở góc độ đầu tư, TS. Nguyễn Minh Phong nhận xét, thách thức lớn nhất hiện nay của nhà máy điện khí LNG vẫn là giá thành cao, cao hơn rất nhiều so với giá bán lẻ điện mà EVN bán ra cho nền kinh tế. Bộ Công Thương hiện vẫn chưa ban hành khung giá phát điện cho các nhà máy điện khí LNG. Việc cam kết tổng sản lượng điện mua hàng năm từ phía EVN và bao tiêu sản lượng khí hàng năm chưa có cũng khiến nhà đầu tư lo lắng về hiệu quả của dự án.
“Việc cam kết sản lượng điện phát và tiêu thụ khí hàng năm sẽ là cơ sở để các ngân hàng xem xét cấp tín dụng cho dự án, cũng như dự án mua được nguồn LNG giá tốt thông qua hợp đồng mua LNG dài hạn để giá điện rẻ hơn. Như vậy, nếu không tháo gỡ được nút thắt lớn nhất là giá điện LNG thì các dự án điện khí được dự báo sẽ còn khó triển khai”, ông Phong nói.
Do vậy, các chuyên gia cho rằng, để phát triển điện khí LNG, rất cần sự trao đổi, chia sẻ, lắng nghe giữa cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, địa phương, các chuyên gia, nhà nghiên cứu để tiếp tục cụ thể hóa các hành động về chính sách và tổ chức thực hiện nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh khí, bảo đảm cân bằng thị trường, phát triển hạ tầng.
Đặc biệt, phải thật sự quan tâm đến các vấn đề như công tác quy hoạch, huy động nguồn lực, cơ chế giá, giải phóng mặt bằng. Trong đó bao gồm LNG nhập khẩu và sử dụng khí trong nước, các giải pháp bảo đảm phát triển hạ tầng điện khí tại Việt Nam, đảm bảo chuỗi cung ứng cho sản xuất điện khí, vốn đầu tư, sử dụng đất, không gian biển, hiệu quả kinh tế - xã hội.
Thủ tướng chủ trì hội nghị về tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các dự án năng lượng tái tạo
Phó Thủ tướng: Không để xảy ra tiêu cực trong điều chỉnh quy hoạch điện VIII