TPHCM sẽ trở thành 'siêu đô thị dịch vụ' của khu vực?
Với lợi thế mở rộng địa giới và tiềm lực kinh tế sẵn có, TPHCM đang đứng trước cơ hội để trở thành “siêu đô thị dịch vụ” của khu vực. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, thành phố cần vượt qua nhiều thách thức về hạ tầng, thể chế và chất lượng dịch vụ.
Động lực và thách thức từ siêu đô thị dịch vụ
Thành phố đang triển khai xây dựng Đề án “Xây dựng TPHCM trở thành trung tâm dịch vụ lớn của cả nước và khu vực với các ngành dịch vụ cao cấp, hiện đại, có giá trị gia tăng cao” (gọi tắt Đề án).
Ngày 12/9, phát biểu tại Tọa đàm “TPHCM - Trung tâm dịch vụ lớn của cả nước và khu vực với các ngành dịch vụ cao cấp, hiện đại, có giá trị gia tăng cao: Định hướng và giải pháp đột phá” do Sở Công Thương TPHCM tổ chức, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Văn Dũng nhấn mạnh, nhiều năm qua khu vực dịch vụ luôn đóng góp từ 60-65% tăng trưởng kinh tế địa phương (GRDP), giữ vai trò động lực chính cho tăng trưởng. Sau khi hợp nhất với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, TPHCM đã đóng góp gần 25% GDP quốc gia, trong đó dịch vụ chiếm khoảng 51% GRDP.

Tuy vậy, con số này vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức 70-80% của các trung tâm dịch vụ hàng đầu thế giới như Singapore, Hong Kong hay Thượng Hải - Trung Quốc. Lãnh đạo thành phố lưu ý, nếu không tái cấu trúc mạnh mẽ, thành phố sẽ khó cạnh tranh trong bối cảnh ASEAN đang dịch chuyển nhanh sang kinh tế số, dịch vụ tài chính quốc tế và logistics toàn cầu.
Theo ông Dũng, việc mở rộng địa giới đã tạo ra một “siêu đô thị quốc tế” với lợi thế cộng hưởng rõ rệt. Trong đó, TPHCM giữ vai trò trung tâm tài chính, thương mại, giáo dục, y tế; Bình Dương bổ sung nền tảng công nghiệp và logistics; Bà Rịa - Vũng Tàu phát huy thế mạnh cảng nước sâu, dầu khí và du lịch. Tuy nhiên, để thực sự trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp tầm khu vực, thành phố cần có những bước đột phá về tư duy, thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực.
Giám đốc Sở Công Thương TPHCM Bùi Tá Hoàng Vũ cho rằng, dịch vụ hiện là khu vực kinh tế chủ lực. Tuy nhiên, nhiều ngành vẫn phát triển theo chiều rộng, chưa có tính chuyên sâu và chưa hình thành được chuỗi giá trị tích hợp.

“Đề án là một trong các nhiệm vụ cấp bách. Trong bối cảnh đó, thành phố xác định yêu cầu cấp thiết là phải tái cấu trúc mạnh mẽ khu vực dịch vụ theo cả chiều rộng và chiều sâu, nâng chất lượng để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
TPHCM sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI), mở rộng hợp tác quốc tế, phát triển các thị trường dịch vụ mới và xây dựng hệ sinh thái dịch vụ chất lượng cao với các trụ cột tài chính, thương mại, logistics, công nghệ, giáo dục, y tế, du lịch và văn hóa sáng tạo” - ông Vũ nói.
Logistics và ba trụ cột phát triển
Trưởng ban Chính sách Pháp chế Hiệp hội Logistics TPHCM Lương Quang Thi cho biết, thành phố hiện có khoảng 80% doanh nghiệp logistics là nhỏ và vừa, nhưng chỉ chiếm 30% thị phần. Hệ thống hạ tầng phụ thuộc nhiều vào vận tải đường bộ khiến chi phí logistics cao hơn so với khu vực.
Giám đốc Trung tâm Logistics Tân Cảng Sài Gòn Đinh Xuân Khánh thông tin, sản lượng hàng hóa qua cảng của thành phố đạt khoảng 14 triệu TEU/năm và có thể tăng lên 26-27 triệu TEU vào năm 2030 nếu có chính sách thu hút hàng trung chuyển quốc tế.

Ông Khánh đề xuất thành phố cần đầu tư cảng biển hiện đại, chú trọng phát triển giao thông thủy nội địa để giảm tải cho đường bộ, đồng thời hình thành hệ thống ICD phân bổ dọc sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và mở rộng tới Củ Chi, Dầu Tiếng. Theo ông Khánh, thành phố cũng có tiềm năng khai thác logistics du lịch khi nhiều tàu quốc tế cập cảng Bà Rịa - Vũng Tàu với hàng nghìn du khách, song dịch vụ kết nối với TPHCM hiện còn hạn chế.
Ở góc độ nghiên cứu, PGS, TS. Võ Thị Ngọc Thúy đánh giá đề án phát triển dịch vụ giá trị gia tăng cao của TPHCM có cơ sở khoa học khi gắn với kinh tế xanh, kinh tế số và đào tạo nhân lực. Bà Thúy đề xuất bổ sung nhóm ngành “kinh tế số” và “giáo dục - đào tạo”, đồng thời rút kinh nghiệm từ Thượng Hải, đó là thành công bắt đầu từ cơ chế, chính sách đột phá và đầu tư hạ tầng hiện đại.
Theo bà Thúy, thành phố cần tập trung vào ba trụ cột: thể chế, hạ tầng và thương hiệu. Trước hết là thành lập hội đồng phát triển dịch vụ để đảm bảo liên kết giữa cơ quan quản lý - chuyên gia - doanh nghiệp. Song song đó là đầu tư hạ tầng kết nối liên vùng, xóa rào cản địa lý, gắn kết các ngành dịch vụ. Một nhiệm vụ quan trọng khác là xây dựng thương hiệu quốc gia: Không chỉ thu hút thương hiệu ngoại, mà phải tạo ra sản phẩm cao cấp mang “linh hồn quốc gia”, đủ sức vươn tầm quốc tế.
“Nhà nước cần đi trước một bước trong dự báo và định hướng xu thế. Khi đó, doanh nghiệp Việt mới đủ sức khẳng định vị thế ngay trên sân nhà” - bà Thúy nói.