Việc xây dựng các hệ thống quy định, chính sách, hạ tầng, nền tảng cho “mặt hàng carbon” có thể giao dịch được trên thị trường khu vực và thế giới là cả quá trình nan giải.
Còn nhiều rào cản
Đó là chia sẻ của TS. Lê Huy Huấn - Giảng viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân với DĐDN. TS Lê Huy Huấn cho biết, sàn giao dịch tín chỉ carbon được đi vào vận hành sẽ giúp tăng cường tính minh bạch của thị trường trong việc định giá carbon và thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân chung tay vào mục tiêu giảm phát thải, góp phần đáng kể vào kế hoạch thực hiện Net Zero vào năm 2050 như cam kết đề ra.
Tuy nhiên thực tế còn rất nhiều vướng mắc để tiến hành đưa thí điểm thị trường carbon vào năm 2025 và đưa vào vận hành chính thức vào năm 2028. Lý giải về những khó khăn này TS. Lê Huy Huấn đưa ra những bất cập sau:
Thứ nhất, điều kiện để vận hành sàn giao dịch carbon là các doanh nghiệp phải có khả năng sản xuất ra tín chỉ carbon, nghĩa là phải có “hàng hóa” để bán. Muốn xác định được có bao nhiêu hàng hóa để bán, các cơ quan quản lý cần khẩn trương đưa ra đầy đủ hướng dẫn đo lường, kiểm kê một cách chính xác, lượng khí thải thực tế của doanh nghiệp. Trên cơ sở xác định mức trần, phạm vi phát thải, cơ quan quản lý sẽ phải phân bổ quyền phát thải trong tổng mức trần quy định. Điều này giúp xác định được hạn ngạch phát thải được phân bổ miễn phí cho các lĩnh vực, doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc xác định lượng phát thải của doanh nghiệp là dư thừa hay thiếu hụt so với lượng phát thải cho phép.
Cụ thể theo Khoản 2, Điều 5 của Nghị định 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định các đối tượng phải thực hiện giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Quyết định Quyết định 01/2022/QĐ-TTg ban hành ngày 18 tháng 1 năm 2022 đã quy định danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính (KNK) phải thực hiện kiểm kê KNK. Đây cũng là các thành phần tham gia thị trường carbon trong tương lai.
Tuy vậy, cho đến nay, hiện mới có Thông tư số 17/2022/TT-BTNMT quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và kiểm kê khí nhà kính lĩnh vực quản lý chất thải, cũng như hướng dẫn cho các lĩnh vực khác vẫn đang được xây dựng.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cũng phải thiết lập hệ thống MRV để theo dõi việc thực hiện và hoàn thành các yêu cầu giảm phát thải của từng doanh nghiệp nhằm đảm bảo mỗi tấn GHG giảm được là chính xác. Quá trình này phải được kiểm tra và xác minh bởi các thanh tra viên của Chính phủ hoặc một tổ chức tư nhân/bên thứ ba độc lập xác minh, đánh giá và cung cấp chứng nhận lượng khí thải của doanh nghiệp.
Thứ hai, cần tiến hành định giá hàng hóa carbon hay nói cách khác là phải hình thành mức giá cho mỗi tấn KNK phát thải ra môi trường. Đây là công cụ nhằm hạn chế phát thải KNK bằng cách đặt một khoản phí phát thải để khuyến khích các ngành sản xuất phát thải ít hơn lượng CO2 ra môi trường.
Theo đó TS. Lê Huy Huấn chia sẻ, tại báo cáo “Thực trạng và xu hướng định giá carbon” của Ngân hàng Thế giới năm 2023, hiện công bố 73 công cụ định giá khác nhau. Trong đó, công cụ thuế carbon và hệ thống trao đổi tín chỉ ETS chiếm khoảng gần 24,0% tổng lượng phát thải carbon toàn cầu. Và hiện nay, Việt Nam đã gián tiếp đánh thuế các-bon qua Thuế bảo vệ môi trường đối với doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, mức thuế này chưa thực sự phản ánh bản chất của việc định giá carbon.
Do đó, việc định giá carbon ở Việt Nam thông qua thị trường carbon hay hệ thống giao dịch hạn ngạch (ETS) là rất cần thiết vì định giá carbon sẽ khiến cho các hoạt động phát thải trở nên đắt đỏ hơn dẫn đến sự thay đổi hành vi sản xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy và hỗ trợ các lĩnh vực công nghệ phát thải thấp phát triển; giúp phân bổ đồng đều gánh nặng chi phí giảm phát thải cho các ngành;
Tất nhiên, không thể phủ nhận rằng, có nhiều thách thức đặt ra đối với doanh nghiệp và hàng hóa của Việt Nam khi thị trường carbon được vận hành, do liên quan đến trình độ, tài chính cho chuyển đổi công nghệ. Do đó, việc định giá carbon cần được thiết kế nghiêm ngặt và sẽ phải tính đến nguy cơ phản ứng trái chiều từ phía doanh nghiệp vì ảnh hưởng tới lợi ích doanh thu của họ.
Thứ ba, cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các hệ thống quy định, chính sách, cơ sở hạ tầng tạo nền tảng cho “hàng hóa” này có thể giao dịch được trên thị trường khu vực và thế giới. Các yêu cầu chung bao gồm: xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về thị trường carbon; hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế và thiết lập cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước.
Trong đó, đối với riêng thị trường carbon tự nguyện: Do các khoản tín chỉ carbon sẽ không đồng nhất (từ nhiều nguồn khác nhau) nên trên thị trường carbon với các loại tín chỉ này thiếu tính thanh khoản để có thể giao dịch trên sàn hiệu quả và thường mất nhiều thời gian.
Xây dựng “nguyên tắc” cơ bản
Do đó theo TS. Lê Huy Huấn khuyến nghị, để khắc phục những rào cản tạo cơ sở cho thị trường được vận hàng đúng tiến độ đề ra Việt Nam cần phải xây dựng được những nền tảng sau:
Một là xác định được “các nguyên tắc carbon cốt lõi” làm cơ sở để chứng minh rằng các khoản tín chỉ carbon thể hiện mức giảm phát thải thực tế. Mỗi khoản tín chỉ có các thuộc tính liên quan đến từng dự án hoặc khu vực nơi nó được thực hiện. Các thuộc tính này ảnh hưởng đến giá của khoản tín chỉ, bởi vì ở góc độ người mua, họ sẽ đánh giá vai trò hay ý nghĩa các thuộc tính bổ sung là khác nhau. Nhìn chung, sự không nhất quán giữa các khoản chỉ có nghĩa là việc kết nối giữa bên mua và bên bán là một quy trình tốn thời gian, không hiệu quả trong giao dịch. Vì vậy, tiêu chuẩn hóa các thuộc tính đó trong một phân loại chung sẽ giúp bên bán, tiếp thị các khoản tín chỉ và người mua tìm thấy các khoản tín chỉ đáp ứng nhu cầu của họ.
Hai là xây dựng hợp đồng tham chiếu với các điều khoản được tiêu chuẩn hóa cho giao dịch carbon: Hợp đồng này sẽ kết hợp một hợp đồng cốt lõi, dựa trên các nguyên tắc carbon cốt lõi, với các thuộc tính bổ sung được xác định theo phân loại tiêu chuẩn và được định giá riêng sẽ được sử dụng làm đầu vào để định giá các giao dịch, giúp các công ty dễ dàng thực hiện những việc như mua số lượng lớn tín chỉ carbon cùng một lúc.
Ba là thiết lập cơ sở hạ tầng giao dịch, hậu giao dịch, tài chính và dữ liệu: Cơ sở hạ tầng giao dịch linh hoạt và có thể mở rộng cho phép niêm yết và giao dịch các hợp đồng tham chiếu. Cơ quan thanh toán bù trừ và cơ quan đăng ký meta hỗ trợ các hoạt động sau giao dịch và cung cấp khả năng bảo vệ mặc định của đối tác. Tài chính chuỗi cung ứng sẽ cung cấp vốn cho các nhà phát triển. Cơ sở hạ tầng dữ liệu tiên tiến sẽ tăng tính khả dụng của dữ liệu và củng cố tính toàn vẹn chung của thị trường.
Bốn là xây dựng các nguyên tắc sử dụng tín chỉ carbon để giúp đảm bảo rằng việc bù đắp carbon không cản trở những nỗ lực khác nhằm giảm thiểu khí thải. Do vậy, điều đầu tiên, các doanh nghiệp sẽ phải thiết lập nhu cầu về tín chỉ carbon bằng cách tiết lộ lượng khí thải nhà kính từ tất cả các hoạt động, cùng với các mục tiêu và kế hoạch giảm lượng khí thải theo thời gian.
Năm là thiết lập cơ chế để bảo vệ tính toàn vẹn, minh bạch của thị trường, bởi bản chất không đồng nhất của các khoản tín chỉ carbon tạo ra khả năng xảy ra sai sót và gian lận. Sự thiếu minh bạch về giá của thị trường cũng tạo ra khả năng rửa tiền. Vì vậy, cần thiết phải có một quy trình kỹ thuật số có thể giảm chi phí phát hành, rút ngắn thời hạn thanh toán, đẩy nhanh quá trình phát hành tín chỉ và dòng tiền cho các nhà phát triển dự án, cho phép theo dõi các khoản tín dụng và cải thiện độ tin cậy.
Là quốc gia phát thải lớn nhất thế giới, tại sao Trung Quốc không cần đóng góp quỹ khí hậu toàn cầu?
1 người lướt TikTok 45 phút mỗi ngày, một năm lượng carbon thải ra sẽ tương đương lái xe 200km