Xuất khẩu gạo 'thừa thế xông lên' nhưng không để 100 triệu dân thiếu gạo
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, phải tranh thủ sản xuất, xuất khẩu gạo để đạt được giá trị cao nhất, mở rộng thị trường, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và giữ được thương hiệu gạo Việt.
Cần tuân thủ nghiêm quy luật thị trường
Sáng 4/8, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ NN-PTNT, UBND TP. Cần Thơ tổ chức hội nghị triển khai công tác điều hành xuất khẩu gạo.
Chủ trì hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, công tác điều hành sản xuất, xuất khẩu gạo phải đạt 3 mục tiêu: Tranh thủ sản xuất, xuất khẩu gạo để đạt được giá trị cao nhất, mở rộng được thị trường; đảm bảo an ninh lương thực và giữ được thương hiệu hạt gạo Việt Nam.
Theo Bộ trưởng, giá gạo toàn cầu tăng mạnh, đạt mức cao nhất trong 11 năm qua mang lại cơ hội, cũng như nhiều thách thức đan xen cho Việt Nam.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, cần thảo luận, phân tích, đánh giá tình hình xuất khẩu gạo thời gian qua; bàn và thống nhất các nội dung đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu gạo trong điều kiện có thể, góp phần đưa gạo của nước ta ra thế giới và đạt được lợi tích về kinh tế ở mức cao nhất, nhưng phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Ông cho rằng “100 triệu dân mà thiếu gạo ăn là cực kỳ nguy hiểm”.
Bộ trưởng Công Thương nhìn nhận, dù Bộ NN-PTNT cho biết diện tích trồng lúa tăng thêm 500.000 ha so với năm trước, nhưng đây mới là dự báo, là tiềm năng, còn phụ thuộc vào diễn biến tình hình thời tiết nên chưa lường trước được.
Ông lưu ý, nếu lúc này Việt Nam “thừa thế xông lên” mà không có cách làm, không tuân thủ nghiêm quy luật thị trường thì tự chúng ta đánh mất thương hiệu, mà mất rồi không lấy lại được. Nếu đánh mất một đơn hàng thì không đơn thuần là thiệt hại đơn hàng đó, không khéo là mất cả một thị trường.
Điểm mặt các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo từ nay đến cuối năm
Tại hội nghị, ông Trần Duy Đông, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) thông tin, liên Bộ Công Thương, NN-PTNT ước tính, đến tháng 7/2023, Việt Nam sẽ xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo, trị giá 2,58% tỷ USD, tăng 18,7% về lượng và tăng 29,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá gạo xuất khẩu bình quân đạt 534 USD tấn, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo báo cáo về giá gạo xuất khẩu, quý I/2023, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục biến đổi phức tạp, nhu cầu dự trữ lương thực của các nước tăng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam duy trì ở mức cao, dao động khoảng 450 USD/tấn, có thời điểm vượt giá gạo Thái Lan cùng chủng loại.
Bước sang quý II, nhu cầu nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới như Ấn Độ, Pakistan tiếp tục hạn chế. Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam tăng lên 535 USD/tấn vào tháng 5/2023. Việc Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo non-basmati vào ngày 20/7 là yếu tố dẫn đến giá gạo xuất khẩu các nước tăng mạnh.
Đến ngày 1/8, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đạt trung bình 590 USD/tấn, mức cao nhất trong 11 năm qua, tăng khoảng 80USD so với tháng trước; thấp hơn giá gạo cùng chủng loại của Thái Lan khoảng 35 USD/tấn.
Đối với gạo thơm, giá xuất khẩu trung bình gạo Jasmine Việt Nam ghi nhận ở mức 690 USD/tấn, tăng khoảng 80USD so với tháng trước.
“Do có độ trễ so với gạo Thái Lan, mức tăng giá của gạo Việt Nam diễn ra chậm. So với ngày 20/7, giá gạo Thái Lan tăng gần 60 USD/tấn trong khi giá gạo Việt Nam mới tăng có 25 USD/tấn. Đến ngày 1/8, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã lên mức 590 USD/tấn đối với chủng loại 5% và tiến gần hơn so với giá gạo Thái Lan... ”, ông Trần Duy Đông nhận xét.
Các địa phương đang đẩy nhanh tiến độ gieo cấy vụ mùa và vụ Thu Đông năm 2023 và thu hoạch vụ Hè Thu năm 2023. Đến nay, đã thu hoạch gần 3,7 triệu ha, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2022. Năng suất bình quân đạt 65,7 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha nên sản lượng thu hoạch 7 tháng năm 2023 đạt trên 24,1 triệu tấn, tăng 0,4%.
“Từ nay đến cuối năm, nếu thời tiết không diễn biến bất thường thì sản lượng thóc sẽ đảm bảo kế hoạch, đáp ứng đầy đủ nhu cầu thóc, gạo trong nước và yêu cầu xuất khẩu. Lượng thóc dành cho xuất khẩu hơn 15,1 triệu tấn, tương đương 7,5 triệu tấn gạo”, ông Đông nói.
Về việc cân đối xuất khẩu gạo, ông Trần Duy Đông đánh giá, lượng gạo hàng hóa sản xuất phục vụ cho 5 tháng cuối năm còn khoảng 2,66-2,67 triệu tấn, chưa kể lượng thóc, gạo nhập khẩu hàng năm từ Campuchia và Ấn Độ về để phục vụ sản xuất, chế biến thức ăn trong nước.
Tuy nhiên, hiện nguồn gạo phẩm cấp thấp từ Ấn Độ không còn sau lệnh cấm nên khả năng phải bù đắp từ nguồn trong nước.
Về các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo những tháng cuối năm 2023, lãnh đạo Cục Xuất nhập khẩu phân tích, đó là việc thiếu hụt nguồn cung lương thực toàn cầu do tác động từ lệnh cấm của Ấn Độ; tác động từ việc chấm dứt thỏa thuận “sáng kiến ngũ cốc Biển Đen”; tác động từ việc liên hợp quốc cắt giảm viện trợ lương thực; biến đổi khí hậu, thay đổi điều kiện gieo trồng, lạm phát tiếp diễn và chuỗi phản ứng dây chuyền từ các nước thông qua lệnh cấm xuất khẩu.
Trao đổi bên lề Hội nghị về nguồn nhân lực nông nghiệp sáng 4/8, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan cho biết, lúa gạo là sản phẩm đặc thù, gắn liền với đời sống con người. Lãnh đạo Bộ thấy rằng, việc thông tin đang quá háo hức và xem đây như cơ hội để nâng giá gạo lên.
Trong bối cảnh này, Việt Nam cần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và sẵn sàng cung ứng cho thế giới về lúa gạo, đặc biệt, đối với những nước dễ bị ảnh hưởng bởi an ninh lương thực. Còn giá cả là theo cơ chế thị trường. Ông Hoan lưu ý, nếu thông tin quá mức, thế giới nhìn vào và sẽ thấy Việt Nam đang tận dụng cơ hội trên sự khó khăn của quốc gia khác. Đó là điều không nên.
“Chúng ta thông tin trong nước nhưng chỉ 5 giây sau, thế giới đã biết. Cần thông tin một cách cân bằng, mục tiêu là vừa đảm bảo an ninh lương thực trong nước, vừa đẩy mạnh cung ứng lúa gạo ra quốc tế. Thông điệp của các nhà lãnh đạo Việt Nam là: Chúng ta là một quốc gia có trách nhiệm”, Bộ trưởng Hoan nói.
Thủ tướng: Cơ chế, chính sách phù hợp sẽ nhân đôi, nhân ba sức mạnh
Xuất khẩu vượt 5 tỷ USD, vẫn đau đáu chưa có thương hiệu gạo Việt chất lượng cao